Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 9: Suy Nghĩ Về Việc Giữ Lời Hứa Với Mọi Người Xung Quanh Dàn Ý &Amp; 9 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Bvta.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Giữ lời hứa là đức tính tốt đẹp của con người cần được phát huy, nhằm tạo được niềm tin, sự tín nhiệm của mọi người xung quanh. Với 9 bài Suy nghĩ về việc giữ lời hứa với mọi người xung quanh sẽ giúp các em học sinh lớp 9 hiểu sâu sắc hơn về vai trò, ý nghĩa của lời hứa.
Việc giữ lời hứa không chỉ chứng minh bạn là người đáng tin cậy, mà còn thể hiện là người có trách nhiệm, vừa tôn trọng bản thân vừa tôn trọng người xung quanh. Chi tiết mời các em cùng tải 9 bài nghị luận giữ lời hứa để chuẩn bị thật tốt kiến thức Ngữ văn 9, ôn thi vào lớp 10 hiệu quả.
I. Mở bài:
Giới thiệu vấn đề: ý nghĩa của việc giữ lời hứa
II. Thân bài:
1. Giải thích vấn đề
– Hứa là nhận lời với ai đó một cách chắc chắn là sẽ làm việc nào đó.
2. Ý nghĩa của việc giữ lời hứa:
– Việc giữ lời hứa không chỉ chứng minh rằng bạn là người đáng tin cậy mà còn chứng minh bạn rất đáng để người khác ủy thác trách nghiệm.
– Người giữ lời hứa sẽ được mọi người tin tưởng và quý mến và tôn trọng.
– Giữ lời hứa cũng cho thấy bạn là người sống có trách nhiệm.
– Lời hứa còn mang đến niềm tin hy vọng cho người khác.
– Lời hứa đôi lúc còn thể hiện sự coi trọng người khác của bạn. Nếu bạn thất hứa thì đôi lúc sẽ có người nghĩ họ không được coi trọng trong bạn.
– Dẫn chứng: Một người bạn nhờ bạn giúp làm bài tập và bạn hứa sẽ giúp bạn đó. Nhưng đến ngày nộp bài thì bạn vẫn chưa làm khiến bạn đó bị điểm kém. Từ đó bạn đã mất điểm trong lòng người khác và bản thân mình cũng tự cảm thấy bứt dứt.
– Làm thế nào để trở thành một người biết giữ lời hứa?
Sống chân thành, giữ chữ tín
Chỉ hứa khi chắc chắn bản thân có thể thực hiện được.
– Phản đề: Vậy mà trong cuộc sống hiện nay vẫn còn rất nhiều người thất hứa. Đó là những con người đáng bị lên án.
III. Kết bài
Liên hệ bản thân và rút ra bài học.
Giữ lời hứa là một phẩm chất cao đẹp mà chúng ta cần có. Giữ lời hứa là khi đã hứa điều gì, ta phải chắc chắn thực hiện lời hứa đó. Việc giữ lời hứa có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong cuộc sống. Việc giữ lời hứa sẽ giúp chúng ta an yên trong lòng, đồng thời sẽ nhận được sự yêu quý, tin tưởng và tôn trọng từ mọi người. Không ai muốn trao cơ hội cho một kẻ thường xuyên thất hứa như cha ông ta đã đúc kết “Một lần bất tín, vạn lần bất tin”. Giữ lời hứa vừa thể hiện sự tôn trọng bản thân và tôn trọng người khác. Đức tính tốt đẹp này là yếu tố quan trọng làm nên nhân cách con người. Bác Hồ chính là một tấm gương tiêu biểu về việc giữ lời hứa. Hồi sống và làm việc tại Pác Bó, Cao Bằng, Bác Hồ từng hứa tặng chiếc vòng bạc cho một em bé thường hay quấn quýt bên Bác. Hai năm sau, khi Bác quay lại, chẳng còn ai nhớ tới câu chuyện chiếc vòng bạc ấy nữa. Bỗng Bác mở túi và trao tặng cho em bé năm xưa một chiếc vòng bạc. Câu chuyện của Bác là tấm gương sáng để ta học cách giữ chữ tín dù là với ai, dù là việc gì. Vậy mà vẫn có những cá nhân sống không biết giữ lời hứa, vô tình để trôi tuột rất nhiều cơ hội vàng cho bản thân. Lời nói thì dễ dàng nói ra những không thể thu lại, bởi vậy, nếu không chắc chắn điều gì, ta không nên hứa hẹn. Có những lời hứa ta chỉ coi là vu vơ xong nó có thể là niềm tin to lớn với người khác. Một khi ta thất hứa, ta sẽ khiến đối phương hụt hẫng và thất vọng. Chúng ta cần có trách nhiệm với những lời mình đã hứa. Có như vậy, ta mới là người đáng tin cậy.
Giữ lời hứa tưởng chừng như là 1 việc đơn giản nhưng lại có ý nghĩa lớn lao đối với con người. Đó là việc có trách nhiệm trước lời nói của mình, phải biết lấy chữ tín làm đầu, không được hứa suông hứa liều; phải làm đúng, thực hiện đúng điều đã nói và đã hứa. Tại sao lại như vậy? Bởi mỗi lời nói ra đều phản ánh phần nào đó tính cách của con người. Nếu con người nói ra mà không thực hiện được sẽ là 1 người nói dối, hão huyền, làm mất niềm tin của người khác. Ngược lại nếu nói được, làm được sẽ tạo cho người đối diện những ấn tượng tốt đẹp. Người biết giữ lời hứa là người có chữ tín, đáng tin cậy, rất đáng để người khác ủy thác trách nhiệm.Niềm tin bao giờ cũng là 1 trong những yếu tố quan trọng trong mọi công việc, đặc biệt là ở 1 công việc mới. Và để xây dựng niềm tin, một trong những cách tốt nhất là giữ lấy lời hứa của chính mình. Biết giữ lời hứa là 1 nguyên tắc trong ứng xử, giao tiếp. Nó thể hiện sự tôn trọng của mình đối với người khác, đồng thời cũng thể hiện chính bản thân mình là người có lòng tự trọng. Như vậy, lời hứa có thể nói ra 1 cách rất dễ dàng, hãy trở thành một người đáng tin cậy với người khác và biết chịu trách nghiệm cho lời hứa của mình.
“Các bạn có biết lời hứa nghĩa là thế nào không? Lời hứa không phải là lời nói thông thường hay một lời nói suông mà là một lời nói nghiêm túc và việc giữ lời hứa cũng là một điều rất đáng quý và đáng trân trọng”.
Các bạn thấy sao? Việc giữ lời hứa thật đáng trân trọng và đáng quý, vậy mà có người còn xem nhẹ nó và lời hứa chỉ là lời nói cho qua chuyện. Nếu không biết giữ lời hứa thì bạn sẽ không bao giờ biết trân trọng lời nói của mình. Người khác sẽ nghĩ bạn là một người vô trách nhiệm đối với lời nói của mình, nghĩ rằng bạn không đáng tin cậy và có thể bạn sẽ còn gặp nhiều hậu quả hơn nữa nếu bạn không biết giữ lời hứa.
Bởi vậy, bạn hãy trân trọng nó và hãy hứa nếu như đó là việc bạn có thể làm được, bạn sẽ có được những kết quả tốt từ người khác. Vậy nên, việc giữ lời hứa rất đáng quý để tôi và mọi người cùng học tập.
Hoa là lời hứa của mùa xuân, mùa nước là lời hứa của đại dương, nơi xa xôi là lời hứa của con đường. Vì vậy giữ lời hứa nhỏ hay lớn đều rất quan trọng. Một lời hứa có trọng lượng, giống như một ngọn núi cao. Đáng buồn là rất nhiều người trong chúng ta bị ngủ quên dưới chân núi đó!
Giữ lời hứa là một cách giữ tình cảm rất quan trọng. Thất hứa là một việc phải gánh lấy trọng trách rất lớn. Trên thực tế cảm giác sợ phải gánh trách nhiệm to lớn còn lớn hơn cả lời hứa quan trọng. Vì vậy, phải rất thận trọng khi hứa, cố gắng nghĩ tới các nhân tố đột nhiên phát sinh, để tránh sự việc bất ngờ xảy ra gây trở ngại cho việc thực hiện lời hứa.
Cho dù bạn hết sức cố gắng nhưng những việc bất ngờ vẫn xảy ra, gây ra những việc không có lợi cho việc giữ lời hứa. Nhưng bạn coi trọng thói quen giữ lời hứa, thì người khác sẽ vì sự chín chắn và tính suy đoán của bạn mà lắng nghe ý kiến và lời khuyên của bạn.
Giữ lời hứa của mình sẽ dành được sự tín nhiệm, không giữ lời hứa có thể phá hỏng tất cả sự cố gắng để tạo niềm tin của bạn. Lời hứa có thể có một sức mạnh to lớn là vì chữ tín là giá trị vô giá. Trật tự xã hội được xây dựng trên cơ sở người với người luôn giữ đúng quy định.
Liệu việc thực hiện lời hứa có phải là tiêu chuẩn để xác định sự cao thượng về tinh thần của con người. Đạo nghĩa, đạo đức cũng đều thể hiện ở chữ tín. Nếu mọi người đều coi chữ tín là chuẩn mực trong việc điều chỉnh hành vị của họ, thì mọi vấn đề của đời sống xã hội sẽ tốt đẹp.
“Lời hứa! Lời hứa được tạo ra để làm cho người khác tin tưởng mình. Việc giữ lời hứa không chỉ chứng minh việc bạn là người đáng tin cậy mà còn chứng minh bạn là người có trách nhiệm. Giữ lời hứa là điều rất quan trọng và đáng quý.
Tạo ra lời hứa thì lúc nào cũng dễ nhưng việc thực hiện và giữ lấy nó lại là điều ngược lại không dễ chút nào. Bạn hứa rất nhiều nhưng bạn có thể không thể giữ được nó. Việc bạn thất hứa đối với bạn thì rất bình thường vì đó chỉ là câu nói thường nhưng đối với người đã đặt lòng tin vào lời hứa của bạn thì đó là điều rất lớn. Bạn có thể làm ra hàng nghìn, hàng vạn lời hứa nhưng lời hứa của bạn không còn là gì đối với người đặt lòng tin vào bạn, vì họ đã mất đi sự tin tưởng và lời hứa của bạn sau khi bạn thất hứa sẽ trở nên vô nghĩa.
Lời hứa rất quý giá và quan trọng. Nếu đã hứa thì phải thực hiện và giữ lấy nó. Hãy trở thành người đáng tin cậy và có trách nhiệm với lời hứa của mình!
Có thể nói, giữ lời hứa là một trong những việc làm khó khăn nhất của con người. Trước khi hứa phải suy nghĩ cẩn thận, xem mình có đủ khả năng để thực hiện lời hứa đó hay không và đã hứa thì phải giữ, nếu không thực hiện được thì phải gánh chịu hậu quả, không được che dấu, lờ đi hoặc đổ lỗi cho người khác
Việc giữ lời hứa không chỉ chứng minh rằng bạn là người đáng tin cậy mà còn chứng minh bạn rất đáng để người khác ủy thác trách nghiệm. Còn nếu không giữ lời hứa, người khác sẽ không những không tin tưởng bạn mà còn xa lánh bạn. Ví dụ như bạn rất tin tưởng và giao một công việc rất quan trọng cho một người bạn nhưng người đó lại không thực hiện mà ngược lại: họ tìm cớ để đùn đẩy trách nghiệm cho việc không giữ lời hứa đó, không thực hiện vì những nguyên nhân này, nguyên nhân khác nghe rất êm tai nhưng sự thật đằng sau lại là người đó lười hoặc quên…. Bạn sẽ cảm thấy mình bị lừa dối và không được tôn trọng. Nếu bạn cũng làm vậy với những người khác, lời hứa của bạn chẳng có chút giá trị nào cả, và uy tín của bạn cũng từ đó mà giảm sút. Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan còn có những nguyên nhân khách quan, đừng vội phán xét tại sao họ không thực hiện lời hứa mà hãy tìm hiểu nguyên nhân họ không thực hiện lời hứa đó, hãy thông cảm cho họ. Có một câu tục ngữ mà ông cha ta đã để lại:
Nói ra thì phải đảm bảo lời nói của mình là đúng, là chân thật , là có đạo lý. Đặc biệt phải đảm bảo cho người khác tin tưởng tuyệt đối vào lời nói của mình. Đừng có lượn lờ như ong như bướm, ý chỉ người nói không chân thật, nói lập lờ, nói đùa cợt rồi không giữ lời hứa.
Thế nên, khi hứa bất cứ điều gì thì hãy giữ lời hứa đó. Hãy trở thành một người đáng tin cậy với người khác và biết chịu trách nghiệm cho lời hứa của mình.
Có thể trong cuộc đời có những lời hứa để cho chúng ta thêm hy vọng cũng như biết được để cho chúng ta thêm sự chờ đợi. Có một nhận xét rất hay về lời hứa tác giả Mai Hiền cũng có một ý kiến, một câu hỏi riêng về lời hứa “Phải chăng guồng quay của cuộc sống quá nhanh, khiến đôi khi ta quên trân trọng những điều nhỏ nhặt nhất, quên trau chuốt từng lời ta nói, cẩn thận từng điều ta làm, và quên đi giá trị đích thực của từng lời ta hứa?”
Ai ai trong đời chắc chắn cũng sẽ hứa và được ai đó hứa một điều gì đó. Vậy ta hiểu lời hứa là gì? Lời hứa là những lời nói để khẳng định một điều gì đó chắc chắn sẽ làm. Và khi ai đó nhận được lời hứa này cũng sẽ hy vọng vào đó, ngược lại người nói ra lời hứa cũng như cố gắng để có thể hiện thực được những điều mình nói ra.
Trong cuộc sống đa sắc màu này thì cũng có rất nhiều lời hứa. Ta như thấy được lời hứa vô cùng đa dạng phong phú về mọi lĩnh vực trong cuộc sống, hứa từ việc nhỏ đến việc lớn, từ trong gia đình, nhà trường. Đó là những lời hứa của bố mẹ đối với con. Ví dụ như đó chính là những lời hứa ‘con học đạt được điểm 10 bố mẹ cho đi chơi đu quay, cho đi ăn kem hay đơn giản là mua một món đồ các bé thích. Rồi thì ngược lại là con hứa với bố mẹ là “con cố gắng chăm ngoan không phụ lòng bố mẹ”… Đó là những lời hứa có tác động đến với cả xã hội và quốc gia. Bố mẹ hứa với con, con hứa với bố mẹ, học trò hứa với thầy…) đến xã hội, quốc gia. Đó cũng chính là những lời hứa của các vị doanh nhân, các chính khách,…Quả thật ai ai cũng đã từng hứa nhưng dường như không phải lời hứa nào cũng được thực hiện.
Ta như có thể thấy được chính sức mạnh của lời hứa nó đã làm cho người khác thêm được sự hy vọng thêm được những niềm tin cũng như nghị lực để có thể đứng vững vàng vào trong cuộc sống. Khi hai người yêu nhau xa cách chẳng hạn, chỉ cần người ra đi nói rằng “nhất định anh sẽ trở về” thì người ở lại chắc chắn là sẽ có niềm tin và thêm một nguồn động lực vô hình để có thể chờ đợi. Nhưng ngược lại người ra đi không hứa không nói được câu nào thì chắc chắn người ở lại sẽ thấy đó là một sự như thật là mông lung biết bao nhiêu. Và bạn đã nhận ra lời hứa luôn là một câu nói thông thường nhưng nó lại có sức nặng tinh thần như vậy. Bên cạnh đó thì lại có những lời hứa là động lực để con người phấn đấu. Bạn như đang theo đuổi mục đích của mình nhưng dường như thành quả bạn đạt được chưa đâu vào đâu cả. Và bạn đã tự hứa với chính bản thân, hay hứa với những người tin tưởng ở bạn là một ngày nào đó nhất định bạn cũng sẽ thành công. Và lại cũng có những lời hứa mang lại niềm vui nho nhỏ khi được quan tâm, yêu thương đúng không nào? Đó còn chính là những lời hứa có khả năng thay đổi thế giới làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn đó là những lời hứa như không bao giờ vứt rác bừa bãi, lời hứa đó như thật là tốt đẹp cho chính cuộc sống của chúng ta. Ta như thấy được những tầm quan trọng của lời hứa và mối quan hệ giữa lời hứa với nhân cách, phẩm giá con người. Đó chính là việc bạn giữ lời hứa. Giữ lời hứa là một việc quý giá và quan trọng. Việc giữ lời hứa dường như cũng đã đem lại niềm tin cho mọi người, khẳng định rằng bạn là người đáng tin cậy, sống có trách nhiệm. Việc thực hiện lời hứa mang lại giá trị, uy tín cho bạn. Ngược lại như không giữ lời gây thất vọng, mất lòng tin, thậm chí tước đoạt ở con người ước mơ, niềm tin, hạnh phúc…mà bạn vừa gieo hạt bằng những lời hứa của mình. Cứ hứa rồi thất hứa, khiến lời nói không còn giá trị, biểu hiện của con người không nghiêm túc, không trọng danh dự, không có trách nhiệm với lời nói, việc làm của mình. Đó là con người không đáng tin cậy và chúng ta hãy cân nhắc xem có nên tin vào những người mà không có trách nhiệm với chính lời hứa của mình hay không chứ?
Quả thật rằng ta như biết được lời hứa thì dễ nhưng giữ lời là một việc khó. Hãy coi trọng lời hứa của bản thân và cam kết thực hiện những gì mình đã hứa. Đừng hứa viển vông cốt chỉ để lấy lòng người khác. Hứa mà biết chắc là không thể làm hoặc không lại hứa để đó mà không làm là nói dối, thậm chí là lừa gạt, lừa đảo.
Chúng ta nhớ là hãy suy nghĩ kỹ trước khi hứa bởi chúng ta biết rằng những lời hứa có giá trị chính là những lời hứa có khả năng. Và nếu như ta thực hiện được và tạo hiệu quả tích cực hơn. Và nếu đã cố gắng nhưng vì hoàn cảnh khách quan mà không thực hiện được lời hứa hãy dũng cảm nhận lỗi, nhận trách nhiệm về chính mình.Lời hứa dường như cũng là một trong những yếu tố để có thể đánh giá đúng khả năng của mình.
Và như nhận xét đã nói thì phải chăng guồng quay của cuộc sống quá nhanh, khiến đôi khi ta quên trân trọng những điều nhỏ nhặt nhất, quên trau chuốt từng lời ta nói, cẩn thận từng điều ta làm, và quên đi giá trị đích thực của từng lời ta hứa. Hãy thật là chắc chắn những lời ta đã nói ra đặc biệt là những lời hứa vì nó còn ảnh hưởng rất nhiều đến với những người xung quanh chứ không phải cho riêng bạn. Lời hứa thật quan trọng, nó giúp cho người ta thấy bạn là những người có trách nhiệm, song đồng thời những lời bạn hứa mà không thực hiện được nó lại hại bạn trở thành người không có chữ tín. Bạn sẽ không được mọi người tin tưởng, nên dù như thế nào đi chăng nữa cũng phải suy nghĩ trước khi nói khi hứa về điều gì.
Lời nói như người xưa đã dạy:
Sống trên đời mỗi chúng ta đã không ít lần thốt ra những lời hứa để tạo niềm tin với xã hội. Hứa không khó, việc thực hiện những lời hứa đó ngay lập tức hay là cả một khoảng thời gian dài sau đó được tốt nhất, đúng nhất mới khó, tùy người. Vậy nên mỗi lời hứa như khẳng định một phần giá trị con người ta. Nối tiếp dòng suy nghĩ, trong một đoạn văn xuất sắc của mình, tác giả Mai Hiền cũng đã trăn trở suy nghĩ về sự quan trọng của lời hứa trong cuộc sống.
Mở đầu đoạn văn tác giả trẻ đã đưa ra lời tựa cho toàn bộ dường như cũng hơn bao giờ hết nó gợi lên cho con người ta bao nhiêu cảm xúc, mà dường như ai cũng tự thấy được rằng sự quan trọng của việc hứa và giữ lời hứa trong cuộc đời “ Phải qua bao nhiêu lời hứa ta mới đủ tin yêu?”.
Đi sâu giải thích vào vấn đề thì dường như ta đã quá quen với 2 từ “lời hứa” chính là những lời nói để khẳng định một điều gì đó chắc chắn sẽ làm, nhằm tạo một sự hoàn toàn tin tưởng, tôn trọng với người đối diện-người nghe.
Có thể nói lời hứa từ đã có lâu đời suốt chiều dài sống của con người. Nó như là một sợi dây vô hình gắn mọi người lại dựa trên cơ sở của giá trị vốn có của lời hứa rất thiêng liêng. Nhưng việc sử dụng lời hứa như thế nào để nó phát huy tác dụng tuyệt đối thì còn là tùy người, tùy sự giáo dục, văn hóa của mỗi người. Vậy nên, cũng dễ hiểu ai cũng có thể nói ra lời hứa nhưng có những lời hứa được thực hiện, có những người thất hứa, có người tạo được sự trân trọng, khâm phục, tin tưởng tuyệt đối, có người lại làm người khác thất vọng, mất dần sự tôn trọng ban đầu. Những ví dụ kể ra thì rất nhiều, người giữ lời hứa có như những ông tiên trong câu truyện cổ tích thực hiện có mặt giúp nhân vật chính, người không giữ lời hứa cũng có thừa như câu chuyện dân gian cậu bé chăn cừu, pinocchio cậu bé người gỗ với cái mũi dài ra mỗi lần nói dối không ai còn xa lạ gì. Con người cũng vì hoạt động nhiều phương diện nên lời hứa trong cuộc sống vô cùng đa dạng phong phú, hứa từ việc nhỏ đến việc lớn, từ trong gia đình, nhà trường như lời người bố người mẹ hứa với con cái và con cái cũng có lần hứa với bố mẹ nhất là lúc phạm phải lỗi lầm học trò hứa với thầy.… đến xã hội, quốc gia, nhân loại, lời hứa của các doanh nhân, lời hứa của các chính khách với người dân của mình, của thế giới, lời hứa dựa trên bản cam kết về nền hòa bình, không can thiệp vào công việc nội bộ trong các nước mãi mãi.
Lời hứa có một vai trò một sức mạnh to lớn, nó làm con người ta có những lời hứa mang đến cho người khác hy vọng, niềm tin, nghị lực để đứng vững trong cuộc sống như việc nhà nước hứa giúp hết mình đưa người dân của mình vượt qua những nỗi đau mất mát, khắc phục những hậu quả thiên tai, hậu quả xấu để lại, như việc ta hứa thực hiện nốt phần việc dang dở cho người thân, người bạn ta phải đi xa mãi mãi trong đau đớn. Có những lời hứa là động lực để con người phấn đấu như sự đành lòng ra đi của người ta đi xa để kiếm tiền, phát triển sự nghiệp có thể nhờ sự vững chãi, tin tưởng, động viên không ngớt của hậu phương luôn vẽ ra một tương lai đẹp đẽ cho tất cả. Lời hứa mang lại niềm vui nho nhỏ khi được quan tâm, yêu thương đơn giản như những lời động viên của người mẹ sẽ cho ta một khoản tiền nho nhỏ, phần thưởng xứng đáng nếu ta học giỏi, làm tốt một kì thi quan trọng…. Xa hơn nữa, có những lời hứa khả năng thay đổi thế giới làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn của những người đứng đầu một nước, người “cha mẹ của dân”, người có khả năng,…
Hứa thì nhiều, nhưng để mà không thất hứa buộc bạn phải nỗ lực, luôn luôn tự nhủ trong tâm trí, trong trái tim mình bằng cả sự chân thành. Để bảo tồn những giá trị vẹn nguyên đẹp đẽ của lời hứa thì ta phải có trách nhiệm với dù chỉ một lời hứa làm một việc nhỏ. Nếu tự cảm thấy không làm được thì xin đừng hứa hoặc nói đỡ để nhường lại cho người có khả năng hơn trừ khi người nhờ mình khẩn khoản trong những trường hợp đặc biệt thì buộc ta vẫn phải hoàn thành nó. Giữ lời hứa như hoàn thành đúng hạn việc trả tiền, trả sách,… mà bạn mượn, bạn vay của người khác cũng chính là cách bạn tự tạo cho người khác cơ hội để được tiếp tục tin tưởng bản, thấy bạn là người có giáo dục, có trách nhiệm, mang lại giá trị, uy tín cho bạn, đó là một trong những điều tiên quyết để hoàn thiện bản thân một cách nhanh nhất. Xin hãy coi trọng với một lời mình nói ra. Đừng hứa viển vông cốt chỉ để lấy lòng người khác.
Dễ thấy trong chúng ta vẫn còn tồn tại những sự không giữ lời gây thất vọng, mất lòng tin, thậm chí tước đoạt ở con người khác ước mơ, niềm tin, hạnh phúc…mà bạn vừa gieo hạt bằng những lời hứa của mình. Cứ hứa rồi thất hứa, khiến lời nói không còn giá trị, biểu hiện của con người không nghiêm túc, không trọng danh dự, không có trách nhiệm với lời nói, việc làm của mình. Hứa mà biết chắc là không thể làm hoặc không làm là nói dối, thậm chí là lừa gạt, lừa đảo.Nếu cứ như vậy con người sẽ trở thành không đáng tin cậy.Người được hứa cũng cảm thấy đau đớn, suy sụp.
Advertisement
Còn một điều bạn phải luôn ghi nhớ rằng, cần suy nghĩ kỹ trước khi hứa, thực hiện hết sức mỗi lời ta đã hứa, nó sẽ lan truyền thông điệp tích cực đến người khác, cũng cho thấy đức tính hy sinh giúp đỡ người của bạn tốt đẹp cần được duy trì, làm cho mọi người đều hạnh phúc. Dù đã cố gắng thực hiện lời hứa nhưng do hoàn cảnh tác động làm ta không thể hoàn thành trọn vẹn điều ấy thì cũng đừng vô tình đến mức không thể nhận lỗi, và xin được thứ tha, đó không phải là hạ thấp mình mà chỉ giúp bạn được người ta thêm quý trọng con người bạn hơn mà thôi.
Qua câu hỏi chân thành kèm xót xa của tác giả trẻ,càng thêm nhấn mạnh về giá trị lời hứa. Dù cuộc sống có phát triển như thế nào đi nữa, con người ta cũng cần phải nâng cao thêm trách nhiệm của mình về việc rèn luyện bản thân cho tốt. Thế hệ trẻ ngày nay dù khó khăn đến đâu cũng nên trân trọng lời hứa, trau chuốt, cẩn thận đến từng lời nói của mình để nâng hình ảnh của mình cao hơn trong mắt mọi người, giúp thế giới lan tỏa thông điệp tuyệt vời của lời hứa, của sự tôn trọng và yêu thương.
Bạn có thể mắc phải hàng loạt sai lầm, nhưng nếu bạn biết giữ lời hứa, bạn sẽ được thưởng xứng đáng bằng sự tốt đẹp trong các mối quan hệ và chứng tỏ được cho người khác thấy phẩm chất tốt đẹp của mình. Ngược lại, nếu bạn không giữ được lời đã hứa, những người quanh bạn – ngay cả chính gia đình bạn – sẽ đánh giá những lời bạn nói một cách ít nghiêm túc hơn; hoặc tệ hơn nữa, dần dần không còn tin tưởng hoàn toàn vào bạn.
Điều rõ ràng là, không có ai là người toàn hảo cả, và sẽ có những lần bạn không thể giữ được lời đã hứa vì nhiều lý do khác nhau – bạn lỡ quên đi, hay vì có một điều gì đó căng thẳng hơn xảy ra. Trong hầu hết các trường hợp, đây không phải là vấn đề, bởi vì việc giữ lời đã hứa không phải là một chuyện cứng nhắc chỉ có hai mặt, hoặc được, hoặc mất; mà là một quá trình kéo dài suốt cả đời người. Nói cách khác, mục tiêu mà bạn nhắm đến không phải là một sự hoàn hảo tuyệt đối, mà là phải cố gắng hết sức để giữ lời hứa ở mức độ càng nhiều càng tốt.
Con gái tôi hiểu điều đó khi nghe tôi nói: “Bố thật sự mong ước được đến đó với con”. Những lời tôi nói không phải là rỗng tuếch. Nó biết rằng những lời đã hứa là quan trọng đối với tôi và tôi đã cố gắng hết sức để thực hiện. Cũng giống như hầu hết mọi người, nó không mong đợi sự toàn hảo, chỉ cần một nỗ lực chân thành để sống trọn vẹn, chỉ cần tôi đã cố hết sức mình.
Một điều cũng quan trọng là hãy giữ cả những lời hứa có tính cách nhỏ nhặt hơn, hoặc chỉ là ngụ ý. Ví dụ như nếu bạn nói với mẹ mình: “Ngày mai con sẽ gọi cho mẹ”. Hãy cố hết sức để giữ lời đã nói. Rất thường khi chúng ta nói ra một số việc – nghĩa là những lời hứa nhỏ nhặt – chỉ vì điều đó làm cho câu chuyện trở nên dễ dàng hơn, hoặc để làm cho ai đó cảm thấy được chú ý đặc biệt hơn vào lúc ấy, và rồi chúng ta không giữ được lời đã nói. Và như thế, làm mất đi còn nhiều hơn cả những ảnh hưởng tích cực có được từ dụng ý tốt của chúng ta. Chúng ta thường nói những điều như: “Tôi sẽ trở lại vào chiều nay” hoặc “Tôi sẽ có mặt ở đó trước 6 giờ”… Và rồi lần này sang lần khác, chúng ta không thực hiện được lời đã nói. Chúng ta cố biện minh cho việc thất hứa bằng những câu như: “Tôi đã cố gắng, nhưng thật sự là quá bận”. Nhưng điều đó chẳng an ủi được nhiều đối với người mà ta thất hứa. Đối với hầu hết mọi người, một lời hứa cuội là một chứng cứ rõ ràng hơn, cho thấy những lời hứa đối với ta là không quan trọng mấy.
Tôi đã nhận ra một điều, tốt hơn là đừng nên đưa ra những lời hứa, ngay cả khi bạn muốn như thế, trừ khi là bạn rất chắc chắn vào việc sẽ có thể đảm bảo cho lời hứa ấy. Nếu như bạn không chắc lắm về việc bạn sẽ thật sự làm được điều gì cho ai đó, đừng nên nói trước là bạn sẽ làm. Thay vì vậy, cứ để sự việc trở thành một điều gây ngạc nhiên. Hoặc là, nếu bạn không chắc lắm là mình sẽ gọi điện cho ai đó, đừng nói trước là mình sẽ gọi… Và nhiều điều khác đại loại như thế.
Bằng vào việc giữ lời đã hứa, chúng ta góp phần nhỏ nhoi của mình vào việc giúp cho những người thân yêu của mình giảm sự hoài nghi xuống đến mức thấp nhất. Chúng ta cho họ biết rằng, vẫn còn những người có thể tin cậy được và đáng để tin cậy. Bạn có thể sẽ ngạc nhiên một cách hài lòng nhận ra sự đánh giá cao của mọi người khi mà bạn luôn làm được những gì đã nói, luôn giữ lời đã hứa. Cuộc sống của bạn trong gia đình và với mọi người chung quanh sẽ tốt đẹp hơn rất nhiều. Đây là một giải pháp lâu dài cực kỳ hiệu quả trong việc giúp bạn gắn bó mãi mãi với những người bạn thương yêu.
Văn Mẫu Lớp 9: Thuyết Minh Về Tác Giả Nguyễn Dữ Và Chuyện Người Con Gái Nam Xương Dàn Ý &Amp; 6 Bài Văn Mẫu Hay Lớp 9
Chuyện người con gái Nam Xương đã khắc họa thành công số phận oan nghiệt của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, đồng thời thể hiện phẩm giá cao quý của họ. Chi tiết mời các e, cùng theo dõi bài viết để ngày càng học tốt mônVăn 9:
1. Mở bài
2. Thân bài
a. Thuyết minh khái quát chung
Chuyện người con gái Nam Xương là một trong hai mươi truyện của tập Truyền kì mạn lục – ghi chép tản mạn những chuyện kì lạ được lưu truyền.
Là một câu chuyện nổi tiếng được nhiều người biết đến, giàu giá trị nội dung và nghệ thuật.
Nhân vật: Vũ Nương, Trương Sinh, Phan Lang, bé Đản,…
b. Thuyết minh chi tiết
Nhân vật chính: Vũ Nương – người phụ nữ đức hạnh, khao khát một cuộc sống bình yên, hạnh phúc nhưng bị xô đẩy vào oan khuất, bất hạnh.
Trương Sinh: chồng của Vũ Nương, người trực tiếp đẩy nàng đến bi kịch.
Bé Đản: con trai của Vũ Nương và Trương Sinh, nguyên nhân khiến Trương Sinh nghi ngờ vợ.
Phan Lang: cầu nối để Vũ Nương gặp lại Trương Sinh và để Trương Sinh hối lỗi với nàng.
Tiến trình: câu chuyện được kể theo trình tự thời gian.
c. Nội dung, nghệ thuật câu chuyện
Nội dung: số phận oan nghiệt của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến đồng thời thể hiện phẩm giá cao quý của họ.
Nghệ thuật: kết hợp tự sự và trữ tình, nghệ thuật dựng truyện, miêu tả nhân vật.
3. Kết bài
Câu chuyện góp phần không nhỏ vào việc làm phong phú kho tàng văn chương của nước ta.
Nguyễn Dữ là 1 văn sĩ, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Ông là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Truyền kỳ mạn lục (in 1768).
Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn.
Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài “ghi chép” để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm “thiên cổ kỳ bút” Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật… nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XV.
Theo Bùi Duy Tân và một số học giả viết lời tựa cho các bản dịch Truyền kỳ mạn lục lưu tới ngày nay có ghi lại:
“Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Truyền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các chuyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những chuyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép chuyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục… mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ… tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những chuyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái.
Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Trước tác của ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kỳ lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
Vũ Thị Thiết – người con gái quê ở Nam Xương thuỳ mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Chàng Trương Sinh mến vì đức hạnh xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Chẳng bao lâu Trương Sinh phải đi lính. Nàng đang có mang, xa chàng vừa đầy tuần thì sinh ra đứa con trai đặt tên là Đản, nửa năm sau, mẹ chàng vì già yếu và nhớ thương con mà lâm bệnh. Vũ Nương hết lòng săn sóc, cơm cháo thuốc men, mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay tế lễ như đối với cha mẹ mình. Qua năm sau, giặc đã chịu lui, Trương Sinh trở về. Con trai đã vừa học nói nhưng chỉ vì câu nói ngây thơ của đứa con đã dẫn đến Trương Sinh hiểu lầm rằng vợ mình đã thay lòng đổi dạ. Trương Sinh nhiếc mắng, đuổi nàng đi. Nàng thanh minh cho mình, rồi hàng xóm bênh vực nhưng không được. Trước cảnh đau buồn đó Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Nàng chết rồi, một hôm Trương Sinh ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya chợt đứa con nói: “Cha Đản lại đến kìa” rồi chỉ cái bóng trên tường. Bấy giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ, biết vợ mình chết oan. Lại nói về chuyện Phan Lang đã cứu Linh Phi, là vợ vua biển Nam Hải. Thế rồi Phan Lang không may đắm thuyền chết, được Linh Phi cứu giúp, chữa trị, đền ơn. Trong cuộc hành trình thăm động của Linh Phi, Phan Lang tình cờ gặp Vũ Nương. Nàng gửi về cho chồng một chiếc hoa vàng và dặn chồng con nhớ làm đàn giải oan… Phan Lang trở về kể chuyện cho Trương Sinh. Vũ Nương hiện lên đa tạ tình chàng nhưng nàng không thể trở về trần gian được.
Chuyện người con gái Nam Xương nói lên sự xót thương với những người phụ nữ tài sắc, đức hạnh mà chết oan trong bi kịch gia đình. Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, hiếu thảo, một mình nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ già. Cái chết của Vũ Nương có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho hạnh phúc lứa đôi phải ly biệt, người vợ trẻ sống vất vả, cô đơn, lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó, Chuyện người con gái Nam Xương có giá trị nhân bản sâu sắc.
Với nghệ thuật điêu luyện, bố cục chặt chẽ, chi tiết hoang đường, li kì, hấp dẫn, dùng chi tiết gợi mở, thắt nút cởi nút câu chuyện tài tình, giải quyết câu chuyện nhanh chóng, bất ngờ, kết thúc có hậu,… Chuyện người con gái Nam Xương đã khẳng định được nét đẹp tâm hồn truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời thể hiện niềm cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kịch của họ dưới chế độ phong kiến. Đây là một áng văn hay, thành công về mặt dựng truyện, dựng nhân vật, kết hợp cả tự sự, trữ tình và bi kịch. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhưng chuyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị nhân đạo sâu sắc.
Qua “Truyền kì mạn lục”, người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ
Nguyễn Dữ là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XVI. Đây là thời kì xã hội phong kiến Việt Nam có nhiều biến động và khủng hoảng. Giống như nhiều trí thức khác của thời đại mình, Nguyễn Dữ chán nản và bi phẫn trước thời cuộc. Vì thế, sau khi đỗ Hương Cống, ông chỉ làm quan một năm rồi cáo quan về ở ẩn.
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại truyền kì ở Việt Nam. Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương là một trong 20 tác phẩm của Truyền kì mạn lục. Qua cuộc đời của Vũ Nương, Nguyễn Dữ tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm tan vỡ hạnh phúc lứa đôi, đồng thời thể hiện sự cảm thông sâu sắc với khát vọng hạnh phúc cũng như bi kịch của người phụ nữ trong xã hội xưa. Tác phẩm cũng là sự suy ngẫm, day dứt trước sự mong manh của hạnh phúc trong kiếp người đầy bất trắc. Tác phẩm cho thấy nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật già dặn. Sự đan xen thực ảo một cách nghệ thuật, mang tính thẩm mĩ cao. Chuyện người con gái Nam Xương là một truyện ngắn đặc sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật trong tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Truyện đã thể hiện được sự phối hợp hài hòa giữa chất hiện thực (câu chuyện được lưu truyền trong dân gian) với những nét nghệ thuật đặc trưng của thể loại truyền kì (yếu tố kì lạ hoang đường).
Giá trị nội dung của tác phẩm được thể hiện ở hai khía cạnh: Hiện thực và nhân đạo. Hiện thực thứ nhất trong tác phẩm là số phận bi kịch của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương. Vốn là người con gái xuất thân từ tầng lớp bình dân nhưng thùy mị, nết na; tư dung tốt đẹp. Khi chồng đi lính, Vũ Nương một mình vừa chăm sóc, thuốc thang ma chay cho mẹ chồng vừa nuôi con, đảm đang, tận tình, chu đáo. Để rồi khi chàng Trương trở về, chỉ vì câu nói ngây thơ của bé Đản mà Trương Sinh đã nghi ngờ lòng thủy chung của vợ. Từ chỗ nói bóng gió xa xôi, rồi mắng chửi, hắt hủi và cuối cùng là đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà, Trương Sinh đã đẩy Vũ Nương tới bước đường cùng, bế tắc, phải chọn cái chết để tự minh oan cho mình. Hiện thực thứ hai được phản ánh là xã hội phong kiến với những biểu hiện bất công vô lý. Đó là một xã hội dung túng cho quan niệm trọng nam khinh nữ, để cho Trương Sinh – một kẻ thất học, vũ phu ngang nhiên chà đạp lên giá trị nhân phẩm của người vợ hiền thục nết na. Hành động ghen tuông của Trương Sinh là hệ quả của một loại tính cách – sản phẩm của xã hội đương thời.
Giá trị nhân đạo thể hiện ở các khía cạnh: ngợi ca, tôn trọng vẻ đẹp của người phụ nữ thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương. Xuất thân từ tầng lớp bình dân nhưng ở Vũ Nương đã hội tụ đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam, theo quan điểm Nho giáo (tam tòng, tứ đức). Tác giả đã đặt nhân vật trong các mối quan hệ để làm toát lên vẻ đẹp ấy. Với chồng: nàng là người vợ hiền thục. Với con: nàng là người mẹ dịu dàng, giàu tình yêu thương. Với mẹ chồng: nàng đã làm tròn bổn phận của một người con dâu hiếu thảo. Những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương còn được thể hiện ngay cả khi nàng sống cuộc sống của một cung nữ dưới thủy cung: Sẵn sàng tha thứ cho Trương Sinh, một mực thương nhớ chồng con nhưng không thể trở về vì đã nặng ơn nghĩa đối với Linh Phi… Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng, từ đó khắc họa thành công hình tượng nhân vật người phụ nữ với đầy đủ những phẩm chất đẹp. Câu chuyện còn đề cao triết lí nhân nghĩa ở hiền gặp lành qua phần kết thúc có hậu giống như rất nhiều những câu chuyện cổ tích Việt Nam. Với đặc trưng riêng của thể loại truyện truyền kì, Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm phần cuối của câu chuyện. Vũ Nương đã không chết, hay nói đúng hơn, nàng được sống ở cõi khác bình yên và tốt đẹp hơn đó là chốn thủy cung. Qua đó có thể thấy rõ ước mơ của người xưa (cũng là của tác giả) về một xã hội công bằng, tốt đẹp mà ở đó con người sống và đối xử với nhau bằng lòng nhân ái, ở đó nhân phẩm của con người được tôn trọng. Oan thì phải được giải, người hiền lành lương thiện như Vũ Nương phải được hưởng hạnh phúc.
Bên cạnh giá trị nội dung, tác phẩm còn được đánh giá cao ở phương diện nghệ thuật. Đây là một tác phẩm được viết theo lối truyện truyền kì, tính chất truyền kỳ được thể hiện qua kết cấu hai phần: Vũ Nương ở trần gian, Vũ Nương ở thủy cung. Với kết cấu hai phần này, tác giả đã khắc họa được một cách hoàn thiện vẻ đẹp hình tượng nhân vật Vũ Nương. Mặt khác, kết cấu hai phần ở “Chuyện người con gái Nam Xương” đã góp phần thể hiện khát vọng về lẽ công bằng trong cuộc đời (ở hiền gặp lành). Chất hoang đường kì ảo cuối truyện cũng làm tăng thêm ý nghĩa phê phán đối với hiện thực: dù oan đã được giải những người đã chết thì không thể sống lại được. Do đó, bài học giáo dục đối với những kẻ như Trương Sinh càng thêm sâu sắc hơn. Ngoài ra còn phải kể đến nghệ thuật xây dựng tình huống bất ngờ, độc đáo nhưng hợp lý tạo tính kịch trong câu chuyện mà yếu tố thắt nút và gỡ nút của tấm kịch ấy chỉ là câu nói của một đứa trẻ lên ba với chi tiết cái bóng.
Tác phẩm thực sự là áng văn mẫu mực tiêu biểu cho Truyền kì của Nguyễn Dữ, sống mãi trong lòng người đọc bởi chất hiện thực sinh động và tấm lòng nhân đạo tha thiết của tác giả.
Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỉ XVI, một tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt Nam.
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, tác phẩm truyền kì mạn lục là một tác phẩm hay trong tập truyện đó. Nhân vật chính là vũ nương, một phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng mình.
Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn học cổ thế kỉ XVI. Hình ảnh người con gái Nam Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng người mọi thời. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài thơ “miếu vợ chàng Trương”:
Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của Vũ nương – người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến. Người vợ phải tự vẫn để minh oan cho sự thuỷ chung của mình. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân đạo khiến ta xúc động khi về nhân vật Vũ Nương trong truyện.
Trước hết, đọc truyện, người đọc càng thương cho thân phận Vũ Nương và dễ dàng nhận thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, đối xử với mẹ chồng và chồng rất phải đạo và là người vợ rất mực đảm đang, nhân hậu, giàu đức khiêm tốn.
Có tư dung tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng can tâm làm một người vợ hiền, ngoan nết “chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”, và cho dù Trường Sinh, chồng của nàng, tuy là con nhà hào phú, lại ít học, đa nghi quá sức.
Sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên sự đầm ấm của gia đình, mặc cho chế độ nam quyền độc đoán đè nặng trong đầu óc kẻ vị kỷ ít học như chồng mình.
Nếu lấy sự kiện ngày Trường Sinh đi lính thú thì hạnh động và lời lẽ đưa tiễn chồng của người vợ hiền, lời thiết tha cầu mong của Vũ Nương: “Chẳng mong chàng áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình yên thế là đủ rồi”…, “thư tính, nghìn hàng, áo rét gửi người ải xa…”, ” là chi tiết cho cái “công-dung-ngôn-hạnh” mà Vũ Nương đã làm được một cách chân thành.
Thế rồi, nỗi nhớ nhung, sự cô đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khiến chúng ta phải ca ngợi con người nhân hậu và đảm đang đó. Tính cách cao đẹp của Vũ Nương còn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt với chồng của nàng.
Khi chồng vào lính, Vũ Nương một mình đảm đang, nuôi dạy con thơ, chăm sóc thuốc thang cho mẹ chồng đau yếu, làm ma chay tống tang khi mẹ chồng qua đời. Vũ nương giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ trọn tình nghĩa vợ chồng.
Cái thói đời xưa nay thường không thể hoà hợp giữa mẹ chồng nàng dâu, nhất là trong gia đình phong kiến. Thế nhưng, dù chỉ có hai mẹ con sống với nhau (Vũ Nương với mẹ chồng) nhưng nàng xem mẹ chồng như mẹ đẻ, điều đó còn được thể hiện qua lời trăng trối của mẹ chồng nàng trước khi bà qua đời: “xanh kia sẽ chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ… “
Rồi sự chu đáo của Vũ Nương trong việc ma chay, cúng lễ đã thể hiện tấm lòng thơm thảo của người con dâu đáng quý như Vũ Nương. Lòng chung thuỷ của Vũ Nương còn được thể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng suốt những tháng ngày Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con côi cút đùm bọc, gắn bó. Cậu Bé Đản thơ ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái bóng của mình trên tường gọi là cha (đó là một cách dỗ dành con ngủ thật hồn nhiên nhưng sau đó lại là nguyên nhân gây ra cái tội thật vô tình).
Nỗi hàm oan không được quyền nói, suy xét cho ra là bởi con người độc đoán, phàm phu lại kém văn hoá như Trương Sinh khi chàng ra lính trở về (nghe lời đứa con non dại) đã gây nên nỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị chồng ghen tuông vô cớ, bao nhiêu lời giãi bày của vũ Nương và lời khuyên ngăn của láng giềng, bà con, cô bác, trương Sinh vẫn không tin và đinh ninh là “vợ hư” , mối nghi ngờ càng ngày càng lún sâu không có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng nhiếc vợ thật thậm tệ rồi “đánh đuổi nàng đi”. Vũ Nương không hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trinh trắng, đức hạnh vẹn toàn nhưng sự đối xử của chồng làm cho nàng hoàn toàn thất vọng, không hiểu nỗi oan khuất từ đâu mà ra. Không có cách nào để giãi bày, thất vọng bởi hạnh phúc – niềm vui “nghi gia nghi thất” không còn nữa, nàng phải tìm đến cái chết để minh oan. Hành động tự vẫn là thái độ cuối cùng nàng được phép bởi không thể giải bày được với chồng, tiết hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ phai mờ đi trong tâm trí của chồng.
Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu không có tội tình gì. Mãi đến sau cái chết đó, người chồng mới hiểu nỗi oan ức của vợ mình. chính sự độc đoán của người đàn ông trong gia đình Phong kiến mà Nho giáo nuôi dưỡng dung túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán.
Bởi không chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà còn biết bao thân phận phụ nữ “Bảy nổi, ba chìm” đã phải sống trong cảnh đời như vậy:
Nguyễn Dữ quê ở huyện Thanh Miện thuộc tỉnh Hải Dương là một trong những học trò giỏi của Trạng Trình – Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sống trong xã hội loạn lạc, chế độ phong kiến thối nát, sau một năm làm quan, ông trở về quê nuôi mẹ già, đóng cửa viết sách.
Ông để lại một số thư và cuốn Truyền kì mạn lục viết bằng chữ Hán. Đây là cuốn văn xuôi cổ gồm 20 truyện, mang yếu tố hoang đường, cốt truyện lưu truyền trong dân gian. Phần lớn là nhân vật phụ nữ tài sắc mà bất hạnh, một ít là trí thức phong kiến sống gần gũi với nhân dân, 19 trong 20 truyện có lời bình. Truyền kì mạn lục là áng văn xuôi cổ giàu giá trị nhân đạo và có tính nhân dân, sâu sắc.
Về Chuyện người con gái Nam Xương rút trong tập Truyền kì mạn lục:
Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp. Chàng Trương Sinh mến vì dung hạnh xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Chẳng bao lâu sau Trương Sinh phải đi lính đánh giặc Chiêm. Vũ Nương rót chén rượu đầy, tiễn chồng mà rằng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên… .
Nàng đang có mang, xa chồng vừa đầy tuần thì sinh ra đứa con trai đặt tên là Đản. Nửa năm sau, mẹ chồng vì già yếu và nhớ thương con đi lính, rồi lâm bệnh. Vũ Nương hết lòng săn sóc, cơm cháo thuốc men. Mẹ chồng qua đời, nàng thương xót lo ma chay tế lễ như đối với cha mẹ đẻ mình.
Advertisement
Qua năm sau, giặc ngoan cố đã chịu trói, Trương Sinh được trở về. Con trai vừa học nói. Chàng bế con thơ đi thăm mồ mẹ. Đứa con quấy khóc, Trương Sinh hết sức dỗ dành. Con ngây thơ nói: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư. Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít. Chàng gặng hỏi, đứa con mới cho hay “có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Trương Sinh vốn tính hay ghen, đinh ninh là vợ hư, la um cho hả giận, nhiếc mắng đuổi đi. Nàng khóc lóc phân trần, họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, Trương Sinh cũng chẳng nghe. Trước cảnh bình rơi trâm gãy, Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang với lời nguyền: “nếu đoan trang” vào nước xin làm Ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ…”. Nàng chết rồi, một hôm Trương Sinh ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng: “Cha Đản lại đến kia kìa!”. Bây giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ, biết vợ mình đã bị chết oan!
Lại nói về chuyện Phan Lang trước làm đầu mục ở bến đò Hoàng Giang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh, đến xin kêu tha mạng. Sáng dậy, có người phường chài đem biếu một con rùa mai xanh. Chợt nghĩ đến chuyện chiêm bao, Phan Lang bèn thả con rùa. Sau đó, Phan Lang chạy loạn, đắm thuyền, thấy dạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi nhìn thấy nói rằng: “Đây là vị ân nhân cứu sống ta thuở xưa” rồi lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ, Phan Lang được cứu sống. Linh Phi là vua biển Nam Hải mở tiệc thiết đãi ân nhân mình. Có vô số mỹ nhân quần áo thướt tha, mái tóc dài đến dự tiệc.
Trong số đó có một thiếu phụ xinh đẹp chỉ điểm một chút son phấn rất giống Vũ Nương. Tiệc xong, người đàn bà ấy nói với Phan Lang: “Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã quên nhau rồi ư?”- Nghe kể đến chuyện làng quê Vũ Nương khóc. Nàng gửi về một chiếc hoa vàng và dặn chồng con nhớ làm đàn giải oan, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước thì nàng sẽ trở về…
Linh Phi sai sứ giả Xích Hỗn đưa Phan Lang ra khỏi Cung nước, về đến nhà, Phan Lang kể lại chuyện gặp Vũ Nương và trao lại chiếc hoa vàng. Trương Sinh bèn lập đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Có năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện. Trương Sinh thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, nói vọng vào: “… Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa…” – Bóng nàng mờ nhạt dần mà biến mất.
Tác giả Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.
“Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.
Vũ Thị Thiết – người con gái quê ở Nam Xương thuỳ mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Chàng Trương Sinh mến vì đức hạnh xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Chẳng bao lâu Trương Sinh phải đi lính. Nàng đang có mang, xa chàng vừa đầy tuần thì sinh ra đứa con trai đặt tên là Đản, nửa năm sau, mẹ chàng vì già yếu và nhớ thương con mà lâm bệnh. Vũ Nương hết lòng săn sóc, cơm cháo thuốc men, mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay tế lễ như đối với cha mẹ mình. Qua năm sau, giặc đã chịu lui, Trương Sinh trở về. Con trai đã vừa học nói nhưng chỉ vì câu nói ngây thơ của đứa con đã dẫn đến Trương Sinh hiểu lầm rằng vợ mình đã thay lòng đổi dạ. Trương Sinh nhiếc mắng, đuổi nàng đi. Nàng thanh minh cho mình, rồi hàng xóm bênh vực nhưng không được. Trước cảnh đau buồn đó Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Nàng chết rồi, một hôm Trương Sinh ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya chợt đứa con nói: “Cha Đản lại đến kìa” rồi chỉ cái bóng trên tường. Bấy giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ, biết vợ mình chết oan. Lại nói về chuyện Phan Lang đã cứu Linh Phi, là vợ vua biển Nam Hải. Thế rồi Phan Lang không may đắm thuyền chết, được Linh Phi cứu giúp, chữa trị, đền ơn. Trong cuộc hành trình thăm động của Linh Phi, Phan Lang tình cờ gặp Vũ Nương. Nàng gửi về cho chồng một chiếc hoa vàng và dặn chồng con nhớ làm đàn giải oan… Phan Lang trở về kể chuyện cho Trương Sinh. Vũ Nương hiện lên đa tạ tình chàng nhưng nàng không thể trở về trần gian được.
Chuyện người con gái Nam Xương nói lên sự xót thương với những người phụ nữ tài sắc, đức hạnh mà chết oan trong bi kịch gia đình. Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, hiếu thảo, một mình nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ già. Cái chết của Vũ Nương có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho hạnh phúc lứa đôi phải li biệt, người vợ trẻ sống vất vả, cô đơn, lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó, Chuyện người con gái Nam Xương có giá trị nhân đạo sâu sắc.
Với nghệ thuật điêu luyện, bố cục chặt chẽ, chi tiết hoang đường, li kỳ, hấp dẫn, dùng chi tiết gợi mở, thắt nút cởi nút câu chuyện tài tình, giải quyết câu chuyện nhanh chóng, bất ngờ, kết thúc có hậu,… Chuyện người con gái Nam Xương đã khẳng định được nét đẹp tâm hồn truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời thể hiện niềm cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kịch của họ dưới chế độ phong kiến. Đây là một áng văn hay, thành công về mặt dựng truyện, dựng nhân vật, kết hợp cả tự sự, trữ tình và bi kịch. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhưng chuyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị nhân đạo sâu sắc.
Qua “Truyền kì mạn lục”, người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Văn Mẫu Lớp 9: Thuyết Minh Về Bài Thơ Đồng Chí 2 Dàn Ý &Amp; 6 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất
1. Mở bài
Từ hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Pháp giới thiệu về tác giả và tác phẩm
Nêu nhận định đánh giá chung
2. Thân bài
* Tác giả Chính Hữu
Sinh năm 1926 mất năm 2007
Tên thật là Trần Đình Đắc
Quê ở huyện Cam Lộc tỉnh Hà Tĩnh
Vừa là một nhà thơ vừa là một người chiến sĩ trực tiếp tham gia kháng chiến
Hồn thơ mộc mạc giản dị giàu chất hiện thực
Được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
* Bài thơ Đồng Chí
Được sáng tác đầu năm 1948 khi tác giả cùng đồng đội tham gia vào Chiến dịch Việt Bắc Thu Đông
Bài thơ có bố cục làm hai phần
Bài thơ thể hiện tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn trong cuộc kháng chiến chống Pháp
Vượt lên trên những gian khổ khó khăn thiếu thốn là tình đồng chí đã vươn lên chiến thắng kẻ thù
Vận dụng thành công các thành ngữ câu thơ sóng đôi đối xứng
Thể thơ tự do hình ảnh thơ mộc mạc chân thật
3. Kết bài
Khái quát lại giá trị của tác phẩm
Nêu cảm nhận cá nhân
Đánh giá chung
I. Mở bài:
Giới thiệu tác phẩm Đồng chí.
II. Thân bài:
a. Tác giả:
Chính Hữu (1926-2007), tên thật là Trần Đình Đắc, quê gốc ở huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô.
Từng được giữ nhiều chức vụ quan trọng trong nhà nước, vinh dự nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật lần hai được trao tặng năm 2000.
Bắt đầu sáng tác vào năm 1947, với đề tài chính là người lính và chiến tranh. Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính của ông, trong đó có bài thơ Đồng chí (2/1948) là đặc biệt nổi tiếng.
Phong cách sáng tác hàm súc, ngôn từ giản dị, linh hoạt, và hình ảnh được chọn lọc.
b. Tác phẩm:
Giới thiệu:
Đồng chí được Chính Hữu sáng tác vào đầu năm 1948, in trong tập Đầu súng trăng treo (1966).
Ra đời nhân dịp tác giả cùng đồng đội tham gia vào chiến dịch Việt Bắc Thu đông năm 1947.
Đồng chí có thể xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu và xuất sắc nhất khi viết về đề tài người lính cách mạng giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-1954).
Nội dung thể hiện hình tượng người chiến sĩ cách mạng những năm đầu kháng chiến chống Pháp, đồng thời bộc lộ và làm sáng rõ tình cảm gắn bó keo sơn giữa những người lính cùng chiến tuyến, điều kiện tiên quyết làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc.
* Bố cục:
Phần một (7 câu thơ đầu), nêu ra cơ sở chính để hình thành tình đồng chí.
Phần hai (11 câu thơ tiếp theo) thể hiện tình cảm gắn bó giữa những người lính và vẻ đẹp của hình tượng người lính.
Phần cuối (3 câu thơ còn lại) cảm hứng lãng mạn cách mạng, những hình tượng có ý nghĩa biểu trưng cho người lính chiến.
* Nhan đề “Đồng chí”: Là cách gọi hàm súc thể hiện những tình cảm gắn bó keo sơn, thắm thiết nghĩa tình của những người cùng chung một chiến tuyến, có cùng lý tưởng.
* Những nét chính về nội dung: “Quê hương anh nước mặn đồng chua…Đồng chí !”:
Xuất thân người lính: Nghèo khó, đứng lên từ những vùng đất sỏi đá, khô cằn nơi miền trung nắng gió khắc nghiệt.
Họ đến từ những vùng quê khác nhau, chưa từng quen biết, thế nhưng trên cơ sở cùng chung một lý tưởng chiến đấu, cùng một niềm tin về đất nước ngày mai được tự do, độc lập.
Trong viễn cảnh chiến đấu khắc nghiệt, gian khổ, việc cùng sát cánh bên nhau chiến đấu, cùng ăn, cùng ngủ, đưa họ thành những người tri kỷ, thân thiết như anh em ruột thịt một nhà.
– “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày…Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”
Chấp nhận rời bỏ quê hương, rời bỏ cuộc sống yên ấm, rời bỏ nhà cửa, người thân để bước ra chiến tuyến, đi theo tiếng gọi của Tổ quốc.
Phải chịu nhiều khó khăn vất vả, đó không chỉ là những hiểm nguy bom đạn, mà còn là sự thiếu thốn vật chất, tinh thần, quân nhu yếu phẩm.
Áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày, chịu đựng cái hoang lạnh khắc nghiệt của vùng núi rừng Việt Bắc để tiếp tục chiến đấu.
– “Đêm nay rừng hoang sương muối… Đầu súng trăng treo”
Hiện thực khắc nghiệt “rừng hoang sương muối”, sự mạnh mẽ, chủ động hơn trong hình ảnh “chờ giặc tới”.
Hình ảnh “đầu súng trăng treo”: Có ý nghĩa hình tượng sâu sắc.
Trăng gắn liền với sự hòa bình, dịu êm, niềm vui sum họp đoàn tụ.
Súng chính là biểu tượng của tinh thần chiến đấu bất diệt vì độc lập tự do.
III. Kết bài:
Nêu cảm nhận chung.
Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, sinh ngày 15/12/1926, tại thành phố Vinh, Nghệ An, quê ở Can Lộc, Hà Tĩnh. Trước Cách mạng tháng Tám, ông học trung học ở Hà Nội; năm 1946 gia nhập Trung đoàn Thủ đô; 1950 phụ trách Đoàn văn công quân đội; 1953 – 1954 tham gia các chiến dịch Thượng Lào và Điện Biên Phủ; từ 1954 tiếp tục công tác văn nghệ trong quân đội.
Bài thơ đầu tiên được biết đến của ông là bài Ngày về (1947). Đó là bài thơ thể hiện ý chí của người chiến sĩ Hà Nội quyết trở về giành lại quê hương bị rơi vào tay giặc Pháp. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Chính Hữu hầu như chỉ viết về người chiến sĩ và cuộc chiến đấu chống ngoại xâm.ông sáng tác ít, nhưng để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Tác phẩm chính là tập thơ Đầu súng trăng treo (1966).
Bài thơ Đồng chí, sáng tác vào đầu năm 1948, sau khi Chính Hữu đã cùng đồng đội tham gia chiến dịch Thu đông 1947, đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Nhà thơ kể: “Tôi bị ốm, sốt rét ác tính, nhưng không có thuốc men gì cả. Đơn vị vẫn hành quân và để lại một đồng chí chăm sóc tôi. Không có đồng chí đó có lẽ tôi đã bỏ mạng. Sự ân cần của đồng chí đó khiến tôi nhớ đến những lần đau ốm được mẹ, được chị chăm sóc. Đó là những gợi ý đầu tiên cho bài thơ Đồng chí(Tác giả nói về tác phẩm, NXB Trẻ, 2000). Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết sâu nặng của những người lính cách mạng, phần lớn xuất thân từ nông dân. Bài thơ cũng làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn rất khó khăn thiếu thốn.
Ra đời trong bối cảnh nền văn học mới hình thành được vài năm, Đồng chí là một trong những thành công sớm nhất của thơ ca kháng chiến. Đặc biệt thi phẩm đã góp phần mở ra phương thức khai thác chất thơ, vẻ đẹp của người lính trong cái bình dị, đời thường, chân thật.
Lịch sử anh hùng một thời máu lửa của đất nước đã trở thành một trong những đề tài hay và nhiều xúc cảm đối với các tác giả, đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, khi cách mạng vẫn còn non trẻ, sự thiếu thốn cả về cơ sở vật chất lẫn quân nhu yếu phẩm khiến cuộc kháng chiến của chúng ta càng gặp nhiều khó khăn. Thế nhưng đứng trước những thách thức ấy người lính cộng sản vẫn hiên ngang đứng vững, ôm súng bảo vệ Tổ quốc bằng mọi giá. Đặc biệt giữa những người chiến sĩ lại hình thành một thứ tình cảm rất đỗi thiêng liêng và cao đẹp ấy là tình đồng chí, điều đó được bộc lộ một cách rõ nét trong tác phẩm nổi tiếng, tiêu biểu nhất cho văn học cách mạng thời kháng Pháp ấy là Đồng chí của tác giả Chính Hữu.
Chính Hữu (1926-2007), tên thật là Trần Đình Đắc, quê gốc ở huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô, chiến đấu chống lại Pháp tại Hà Nội và đưa cơ quan đầu não của Việt Minh an toàn rút ra khỏi Hà Nội. Sống sót sau cuộc chiến ác liệt, Chính Hữu được điều đi bồi dưỡng chính trị và tiếp tục tham gia chiến đấu trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ở những giai đoạn tiếp theo. Ông đã từng được giữ nhiều chức vụ quan trọng trong nhà nước ta như nguyên Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị, Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Đồng thời vinh dự nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật lần hai được trao tặng năm 2000. Chính Hữu bắt đầu đời làm thơ của mình gần như cùng lúc với đời cách mạng, khi bắt đầu sáng tác vào năm 1947, với đề tài chính là người lính và chiến tranh, đó là những trang thơ viết về những gì mà ông cảm nhận được một cách chân thực và sâu sắc nhất trong suốt những năm ở tại các chiến trường. Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính của ông, trong đó có bài thơ Đồng chí (2/1948) là đặc biệt nổi tiếng, có thể xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất không chỉ của đời thơ Chính Hữu mà còn là nền văn học cách mạng thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thơ của Chính Hữu tính ra không có nhiều tác phẩm, thế nhưng cũng đủ ghi dấu ấn trong nền văn học Việt Nam hiện đại bởi một phong cách sáng tác hàm súc, ngôn từ giản dị, linh hoạt, và hình ảnh được chọn lọc.
Đồng chí được Chính Hữu sáng tác vào đầu năm 1948, in trong tập Đầu súng trăng treo (1966). Tác phẩm ra đời nhân dịp tác giả cùng đồng đội tham gia vào chiến dịch Việt Bắc Thu đông năm 1947, phá vỡ cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp lên chiến khu Việt Bắc, bảo vệ an toàn cho cơ quan đầu não của Đảng. Đồng chí có thể xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu và xuất sắc nhất khi viết về đề tài người lính cách mạng giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-1954), và cả trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Nội dung chính của tác phẩm tập trung thể hiện hình tượng người chiến sĩ cách mạng những năm đầu kháng chiến chống Pháp, trong những hoàn cảnh gian khổ ác liệt, đồng thời bộc lộ và làm sáng rõ tình cảm gắn bó keo sơn giữa những người lính cùng chiến tuyến, điều kiện tiên quyết làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc.
Có thể phân chia tác phẩm ra làm ba phần chính, phần một (7 câu thơ đầu), nêu ra cơ sở chính để hình thành tình đồng chí, phần hai (11 câu thơ tiếp theo) thể hiện tình cảm gắn bó giữa những người lính và vẻ đẹp của hình tượng người lính, phần cuối (3 câu thơ còn lại) cảm hứng lãng mạn cách mạng, những hình tượng có ý nghĩa biểu trưng cho người lính chiến.
Những người lính trong thơ của Chính Hữu đều có một xuất thân nghèo khó, đứng lên từ những vùng đất sỏi đá, khô cằn nơi miền trung nắng gió khắc nghiệt “chó ăn đá gà ăn sỏi”. Họ đến từ những vùng quê khác nhau, chưa từng quen biết, thế nhưng trên cơ sở cùng chung một lý tưởng chiến đấu, cùng một niềm tin về đất nước ngày mai được tự do, độc lập. Đặc biệt là trong viễn cảnh chiến đấu khắc nghiệt, gian khổ, việc cùng sát cánh bên nhau chiến đấu, cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm đã trở thành chất liên kết bền chặt mang tên “Đồng chí”, đưa họ thành những người tri kỷ, thân thiết như anh em ruột thịt một nhà. Trở thành cơ sở vững chắc cho cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân ta.
Ở những dòng thơ tiếp theo hình tượng người lính hiện lên một cách thật chân thực với những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý. Họ là những người con chấp nhận rời bỏ quê hương, rời bỏ cuộc sống yên ấm, rời bỏ nhà cửa, người thân để bước ra chiến tuyến, đi theo tiếng gọi của Tổ quốc thân thương, sẵn sàng hy sinh tất cả mọi thứ để đổi lấy một ngày mai đất nước được hòa bình. Trong suốt quãng thời gian chiến đấu, người lính trong kháng chiến đã phải chịu nhiều khó khăn vất vả, đó không chỉ là những hiểm nguy bom đạn, mà còn là sự thiếu thốn vật chất, tinh thần, quân nhu yếu phẩm. Đặc biệt là sự hoành hành của căn bệnh sốt rét, nỗi ám ảnh kinh hoàng suốt một đời lính của nhiều chiến sĩ cách mạng. Bên cạnh đó, hình tượng người lính còn xuất hiện với những hình ảnh chân thực, giản đơn, phản ánh rất rõ nét một thời chiến đấu oai hùng gian khó, đó là cảnh, áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày, và họ phải chịu đựng cái hoang lạnh khắc nghiệt của vùng núi rừng Việt Bắc để tiếp tục chiến đấu. Đó là một sức mạnh phi thường, một nghị lực vượt bậc mà chỉ có những con người cách mạng, mang trong mình lý tưởng cao đẹp, phấn đấu vì đất nước mới có được, một vẻ đẹp của thời đại anh hùng.
Bên cạnh những hiện thực khắc nghiệt “rừng hoang sương muối”, thế nhưng tình đồng chí cao đẹp, gắn bó vẫn tỏa sáng chói lòa, sưởi ấm trái tim mỗi một người lính, khiến tinh thần chiến đấu của họ càng trở nên mạnh mẽ, chủ động hơn trong hình ảnh “chờ giặc tới”. Đặc biệt hình ảnh “đầu súng trăng treo” là một hình ảnh khá thú vị, có ý nghĩa hình tượng sâu sắc, trong khi trăng gắn liền với sự hòa bình, dịu êm, niềm vui sum họp đoàn tụ, thì súng chính là biểu tượng của tinh thần chiến đấu bất diệt vì độc lập tự do. Có thể thấy rằng thơ Chính Hữu phần nhiều là phản ánh hiện thực chiến trường khắc nghiệt nhưng vẫn len lỏi, cài cắm một chút tinh thần lãng mạn cách mạng, tạo thêm niềm tin và sức mạnh trong chiến đấu, cũng là một nét nghệ thuật độc đáo trong phong cách sáng tác của Chính Hữu.
Những người lính trong thời kháng chiến chống Mỹ là đề tài quen thuộc trong thơ ca cách mạng. Chính Hữu cũng góp vào kho tàng ấy một tác phẩm tiêu biểu là bài thơ “Đồng chí”
Chính Hữu Sinh năm 1926 mất năm 2007 tên thật là Trần Đình Đắc quê ở huyện Cam Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Ông vừa là nhà thơ vừa là người chiến sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Chính Hữu chủ yếu viết về đề tài người lính và chiến tranh. Thơ của ông mộc mạc giản dị giàu chất hiện thực cảm xúc dồn nén hình ảnh và ngôn ngữ có chọn lọc hàm xúc. Năm 2000 ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật các tác phẩm tiêu biểu như “Đầu súng trăng treo”, “Ngọn đèn đứng gác”,..
Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào đầu năm 1948 khi tác giả cùng đồng đội của mình tham gia vào Chiến dịch Việt Bắc Thu Đông đã đánh bại cuộc chiến công với quy mô lớn của Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ được in trong tập thơ Đầu Súng Trăng Treo 1966.
Về bố cục bài thơ có thể chia làm 2 phần. Phần thứ nhất gồm 7 câu thơ đầu nói lên cơ sở hình thành tình đồng chí và phần thứ hai gồm 13 dòng thơ còn lại là biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí. Các câu thơ đã phản ánh chân thực và sâu sắc nội dung của bài thơ.
Bài thơ đã thể hiện tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ là những người nông dân từ miền quê nghèo có ra đi cùng chung nhiệm vụ mục đích và lý tưởng chiến đấu cùng chia sẻ những khó khăn gian khổ với nhau. Bên cạnh đó vượt lên trên những gian khổ khó khăn thiếu thốn là tình đồng chí đã vượt lên để chiến thắng kẻ thù.
Thêm vào đó bài thơ cũng thành công bởi sự phối hợp nghệ thuật một cách đặc sắc. Đó là thể thơ tự do hình ảnh thơ chân thực giản dị ngôn ngữ thơ giàu cảm xúc sử dụng các thành ngữ câu thơ sóng đôi đối xứng và một loạt các biện pháp liệt liệt kê ẩn dụ.
Có thể nói đồng chí là thành công sớm nhất của thơ ca cách mạng và kháng chiến. Nó đã góp phần mở ra phương hướng khai thác rất thương và vẻ đẹp của người lính trong cái bình dị đời thường chân thật.
Gắn với tên tuổi của nhà thơ Chính Hữu là bài thơ Đồng Chí. Kháng chiến đã đi xa có những người phải vùi mình ở nơi đất khách quê người cũng có những người sống sót trở về Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì những người lính vẫn sẽ hướng về với nhau hướng về tình đồng đội cao đẹp năm nào. Bởi lẽ đó mà dù thời gian có trôi nhanh thế nào thì bài thơ Đồng chí vẫn sẽ để lại trong lòng bạn đọc dấu ấn khó phai.
“Đồng chí” là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua một hành trình nửa thế kỉ làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.
Hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho bạn đọc trẻ ngày nay.
Bài thơ “Đồng chí” ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954).
Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt” người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:
Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi “nước mặn, đồng chua”, là xứ sở “đất cày lên sỏi đá”. Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.
Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ “đôi người xa lạ” rồi “thành đôi tri kỉ”, về sau kết thành “đồng chí”. Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: “Anh với tôi đôi người xa lạ – Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:
“Súng bên súng” là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu; “anh với tôi” cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới “thành đôi tri kỉ”. “Đôi tri kỉ” là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ “đồng chí” làm diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành – đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, không bao giờ có thể quên:
(“Chiều mưa đường số 5” – Thâm Tâm)
Ba câu thơ tiếp theo nói đến hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ: nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:
Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa: “Cây đa cũ, bến đò xưa… Gốc đa, giếng nước, sân đình…”, được Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận ?
Hay “người ra lính” vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng quê hương ? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời, tình yêu quê hương đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nên sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa. Cùng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài thơ “Bao giờ trở lại”, Hoàng Trung Thông viết:
Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến buổi đầu! Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,… nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men…. Người lính ra trận “áo vải chân không đi lùng giặc chinh”, áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, “Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”:
Chữ “biết” trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ: “anh với tôi”, “áo anh… quần tôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao đẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: “Miệng cười buốt giá” thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tình thương đồng đội được hiểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: “tay nắm lấy bàn tay”. Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, “đi tới và làm nên thắng trận”.
Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ – hai đồng chí trong chiến đấu. Họ cùng “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Cảnh tượng chiến trường là rừng hoang sương muối. Và, một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu. Trong gian khổ ác liệt, trong căng thẳng “chờ giặc tới”, hai chiến sĩ vẫn “đứng cạnh bên nhau”, vào sinh ra tử có nhau. Đó là một đêm trăng trên chiến khu, một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:
“Đầu súng trăng treo”.
Người chiến sĩ trên đường ra trận thì “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông “rừng hoang sương muối” thì có “đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực vừa mộng, về khuya trăng tà, trăng lơ lửng trên không như đang treo vào đầu súng. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hi sinh. “Đấu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ, anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thèm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ – Đóa hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu,trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng của chiến trường, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh “chờ giặc tới”. Mọi gian nan căng thẳng của trận đánh sẽ diễn ra (?) đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng của vầng trăng, và chính đó cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu.
Bài thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.
Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tinh. Tục ngữ thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.
“Đồng chí” là bài thơ rất độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ – người nông dân mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng.
Đã có không ít những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ trong cách mạng, các cuộc cách mạng đã trở thành cái nôi của nhà văn Việt Nam. Trong số những nhà văn đó không thể không nhắc đến Chính Hữu, nhà văn đã sáng tác những vần thơ đầu tiên trong khi đang tham gia Chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông. Lần đầu tiên trong thơ ca cách mạng chúng ta được biết đến cái tên gọi “Đồng chí”, cách gọi gợi lên bao sự thân thương và gắn bó keo sơn, ca ngợi tình cảm đồng đội giữa những người lính bộ đội cụ Hồ.
Chính Hữu (1926 – 2007) tên thật là Trần Đình Đắc, sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Can Lộc – Hà Tĩnh, năm 20 tuổi ông đã gia nhập Trung đoàn Thủ đô, tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sống giữa chiến tranh, giữa những người lính xa nhà, Chính Hữu đã bắt đầu sáng tác thơ, nguyên liệu làm nên thơ của ông cũng chính từ chiến tranh, ông viết nhiều về người lính, chiến tranh. Thơ của Chính Hữu rất mộc mạc, gần gũi, giản dị và giàu chất hiện thực, ông có ít sáng tác nhưng lại là những bài thơ đặc sắc, một số bài tiêu biểu như tập thơ “Đầu súng trăng treo” và “Đồng chí”. Chính Hữu không chỉ là một nhà thơ, một người chiến sĩ mà sau này ông còn là nhà hoạt động cách mạng, nguyên là Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Với những cống hiến của mình cho cách mạng và văn học nước nhà, năm 2000 Chính Hữu đã được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.
Tác phẩm đã ghi dấu tên tuổi của Chính Hữu đó chính là bài thơ “Đồng chí”, bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh Chính Hữu đang cùng đồng đội tham gia Chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông, in trong tập thơ “Đầu súng trăng treo”. Bài thơ có bố cục rõ ràng gồm 2 phần, phần thứ nhất nói về cơ sở hình thành nên tình đồng chí giữa những người lính, phần thứ hai nói về tình đồng chí đồng đội, ý nghĩa của tình đồng chí với người lính. Cơ sở để hình thành nên tình đồng chí xuất phát từ sự tương đồng về cảnh ngộ, xuất thân, các anh đều vác ba lô ra đi từ những miền quê nghèo “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”, tất cả đều là xuất thân từ nông dân, nghèo đói và lam lũ vất vả, mỗi người một phương để rồi chẳng hẹn trước mà trở thành đồng đội. Tình đồng chí của người lính là thứ tình cảm cao đẹp, ở họ có nhiều điểm chung tương đồng, đó là chung một mục đích và lý tưởng chiến đấu, chung một hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, chung một ý chí vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ. Những người đồng chí không chỉ đồng cam cộng khổ với nhau mà còn chia sẻ, kề vai sát cánh bên nhau, ở nơi chiến trường họ là người thân ruột thịt của nhau, coi nhau như anh em để mà thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, trở thành tri kỉ của nhau “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Chỉ bằng những hiện thực giản dị từ cuộc sống người lính cũng như hiện thực tàn khốc của chiến tranh, bài thơ “Đồng chí” đã mang đến cho người đọc những rung cảm tuyệt vời nhất về tình đồng chí của những người lính, khơi gợi trong chúng ta sự biết ơn tới các chiến sĩ, nhớ về thời gian khổ và chiến đấu anh dũng của quân dân ta. Bài thơ nổi bật với những hình ảnh gần gũi, mộc mạc mang đầy chất hiện thực, kết hợp với giọng thơ tâm tình như kể chuyện, biện pháp sóng đôi cùng thành ngữ đã khiến cho bài thơ có sức ngân vang, để lại dư âm sâu lắng trong lòng độc giả.
Kháng chiến đã trôi qua, có những người đã phải bỏ mạng nơi xứ người, có người may mắn được trở về quê hương, chẳng còn mấy đồng chí đồng đội còn được hội ngộ nhau trong ngày giải phóng. Thế nhưng có một điều chắc chắn rằng tình đồng chí của họ vẫn luôn tồn tại, luôn thôi thúc họ đi tìm nhau, hướng về nhau, giống như tình đồng chí trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.
Trong dòng thơ ca về anh bộ đội cụ Hồ, Đồng chí của Chính Hữu ghi nhận một thành công xuất sắc. Giữa lúc chưa phải mọi nhà thơ đã bắt trúng ngay mạch đập của cuộc sống kháng chiến ở những năm đầu, Đồng chí (1948) đã cất lên một tiếng nói mới, chân thực về vẻ đẹp của người Vệ quốc quân, đã góp phần làm sáng tỏ bản chất và sức mạnh của những người cầm súng “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân
(1948)
Đồng chí là một bài thơ cô đúc, “tiết kiệm” trong từng hình ảnh, từng câu chữ. Bằng những chi tiết, những hình ảnh hết sức chân thật, cụ thể mà đầy tính chắt lọc, khái quát, bài thơ đã thể hiện một cách cảm động tình đồng chí gắn bó giữa những người nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu giữ gìn độc lập tự do của Tổ quốc.
Toàn bộ tứ thơ của Đồng chí phát triển xoay quanh mối quan hệ giữa các nhân vật tôi và anh. Ở đây, nhà thơ đã hóa thân vào các nhân vật trữ tình – cũng là những đồng đội thân thiết với mình – để nói lên những hoàn cảnh, biểu hiện những tâm trạng, tình cảm của họ.
Advertisement
Mối quan hệ anh – tôi được giới thiệu ngay từ lúc mở đầu. Họ đều là những người nông dân mặc áo lính ra đi từ các làng quê nghèo, làm ăn vất vả, gian nan. Những con người khổ nghèo ấy vừa được Cách mạng giải phóng và giờ đây gắn bó thắm thiết vì mục đích của cuộc chiến đấu. Sự gắn bó trong quân đội cách mạng giữa những người nông dân “tứ xứ” này cũng được Hồng Nguyên thể hiện một cách hồn nhiên trong phần mở đầu bài Nhớ:
Từ “đôi người xa lạ” đến “thành đôi tri kỉ”, từ “chẳng hẹn quen nhau” đến “đêm rét chung chăn”- đó dường như là sự gặp gỡ, gắn bó tình cờ nhưng thực lại rất tự nhiên và tất nhiên bởi những con người này cùng chiến đấu, hi sinh vì một lý tưởng cao cả. Hai câu thơ mà chứa đựng, liên kết được nhiều hình ảnh sinh động:
Chính Hữu đã dùng một từ “cũ”, từ Hán Việt để diễn tả một tình cảm rất mới. Chữ “tri kỷ” đã tô đậm thêm sự sâu đằm, bền chặt của tình cảm ở đây. Thực chất của mối tri kỷ này là tình đồng chí. Chính vì thế, từ “đồng chí” được tác giả được tác giả tách riêng thành một dòng thơ. Đây là chi tiết nghệ thuật quan trọng. Nó chính là cái bản lề khép mở, nối kết hai phần của bài thơ.
Có thể xem dòng thơ hết sức ngắn này là một tiếng gọi tha thiết, trang nghiêm từ đáy lòng những người nông dân mặc áo lính vừa được gắn bó với nhau trong một quan hệ mới (Sau chữ “đồng chí” có dấu cảm thán). Muốn hiểu hết ý nghĩa của tiếng gọi đó, cần trả nó về hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trước Cách mạng thành công – ở thời kỳ giác ngộ lý tưởng cộng sản, theo Đảng đoàn kết hy sinh giành quyền độc lập tự do; trong những năm đầu kháng chiến gian nan – khi toàn dân đang nhất tề đứng lên theo lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thà quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” – ở những năm tháng, những thời điểm ấy, nghĩa đồng bào, đồng chí thật thiêng liêng và hết sức được trân trọng (Chữ “đồng chí” chúng ta dùng bây giờ hẳn khác). Tính chất thiêng liêng, niềm trân trọng này lại càng được nhân lên gấp bội đối với những người nông dân – vốn là những con người lam lũ, làm ăn cá thể, nay được Cách mạng giải phóng và cuộc đời được rọi chiếu trong ánh sáng thời đại mới. Vì thế, chúng ta thêm hiểu vì sao Chính Hữu lại đặt tên bài thơ của mình là Đồng chí mà không lấy một cái tên khác, chẳng hạn “đồng đội”. Quả thật, chữ “đồng chí” hàm nghĩa cao rộng hơn, mà cũng sâu hơn. Nghĩa đồng chí, một mặt, là cơ sở, là nền tảng; mặt khác, cũng là cốt lõi, là bản chất của tình đồng đội. Về cuối cuộc kháng chiến chín năm, khi chứng kiến chủ nghĩa anh hùng cao cả của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Chính Hữu như nhận thức được rõ thêm, cụ thể thêm tình đồng đội:
(Giá từng thước đất)
Đó là một bước cụ thể hóa tình đồng chí. Còn lúc này (1948) – ở buổi đầu kháng chiến – cái cần nhấn mạnh là sự tập hợp, là sự cùng chí hướng trong thử thách gian nan. Cái tên của bài thơ, sự tách riêng thành một dòng thơ của từ “đồng chí” mang ý nghĩa ấy.
Vừa dồn tụ cảm xúc ở sáu dòng thơ trước, dòng thơ chỉ một từ này đồng thời đóng vai trò mở chuyển cho cả phần sau. Đối với các nhân vật trữ tình (tôi và anh) từ “đồng chí” còn như khắc ấn một khái niệm mới mẻ mà cả phần sau của bài thơ là sự vỡ lẽ, sự nhận thức nhau rõ hơn để cảm thông, gắn bó với nhau máu thịt hơn. Đồng chí – ấy là gửi lại ruộng nương, từ biệt giếng nước gốc đa để cùng “ra lính” giữ gìn độc lập tự do của đất nước. Đồng chí– ấy là chịu chung “từng cơn ớn lạnh”, từng trận “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Đồng chí – ấy là sự sẻ chia và động viên nhau trong thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến:
Tình đồng chí thắm thiết khiến cho các anh nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ nhất của đời sống. Điều đáng chú ý là bao giờ họ cũng nhìn bạn, nghĩ về bạn trước rồi sau đó mới nhìn mình, nghĩ về mình. Từ đầu đến cuối bài Đồng chí, trong cặp nhân vật trữ tình, bao giờ anh cũng xuất hiện trước, cũng đứng trước tôi (Lần 1: “Quê hương anh… Làng tôi”. Lần 2: “Anh với tôi đôi người xa lạ”. Lần 3: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…”. Lần 4: “áo anh… Quần tôi…”). Cái “quy luật” trên bề mặt ngôn ngữ ấy phải chăng phản ánh một nét đẹp trong chiều sâu tình cảm: thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Nó trái hẳn với lối sống “tự kỷ trung tâm” của con người tư sản. Nó chứng tỏ niềm đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng cảnh ngộ, cùng nghĩa vụ.
Nếu đầy đủ thương nhau đã quý. Nhưng càng gian khổ, càng thiếu thốn lại càng thương nhau, ấy mới là điều đáng quý hơn ở những người chiến sĩ cách mạng. Nhịp ngắt của đoạn thơ trên ngắn, chậm. Từng câu thơ gọn. Mỗi câu nêu một chi tiết hết sức cụ thể. Từng chi tiết cô gọn ấy cứ lần lượt khắc sâu vào lòng người đọc. Khắc sâu ấn tượng rồi để mở ra – mở ra biết mấy tâm tình, xúc cảm ở câu thơ cuối đoạn được trải dài hơn:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
Dường như đây là cao trào của cảm xúc yêu thương trong người chiến sĩ. Thương nhau vô cùng trong cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay”. Nhưng cũng cứng rắn, nghị lực vô cùng bởi cử chỉ ấy chỉ có khi những người chiến sĩ đã ý thức đầy đủ về hoàn cảnh của đất nước kháng chiến, về nghĩa vụ cao cả của mình. Cử chỉ ấy dường như chứa đựng sự tự ý thức, tự nhận thức, bao hàm lời tự dặn mình và dặn dò nhau. Tình cảm không bồng bột mà đằm sâu.
Chính quá trình nhận thức rõ về tình đồng chí, chính bước phát triển cao của tình yêu thương lẫn nhau như trên đã dẫn đến đoạn kết thúc độc đáo:
Ba câu thơ mà nói được rất nhiều điều. Đó là hoàn cảnh chuẩn bị chiến đấu – đặc điểm không gian và thời gian: đêm nay– rừng hoang – sương muối. Đó là tình đồng chí keo sơn trong gian khổ, là tinh thần sẵn sàng vào trận: “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là tâm hồn đầy chất thơ của anh Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu của chúng ta: “đầu súng trăng treo”.
Không phải ngẫu nhiên mà sau này Chính Hữu đặt tên cho một tập thơ của mình là Đầu súng trăng treo. Cũng không phải tự nhiên mà trên nhiều bìa sách, nhiều bức họa sách của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân thường xuất hiện hình ảnh này. Nhà thơ đã sáng tạo được một hình ảnh thật độc đáo, giàu sức khái quát. Đầu súng – thể hiện của chiến tranh, của khói lửa; trăng treo – hình ảnh của thiên nhiên trong mát, của cuộc sống thanh bình. Sự kết hợp tự nhiên giữa đầu súng và trăng treo làm toát lên tâm hồn trong sáng, bay bổng của người chiến sĩ, làm toát lên ý nghĩa chân chính, cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước. Chúng ta bền gan chiến đấu, gian khổ hy sinh chính vì vầng trăng ấy, vì cuộc sống thanh bình. Hình ảnh và nhịp điệu thơ này lơ lửng, sóng sánh, vừa tạo hình vừa thật gợi cảm. “Đầu súng trăng treo” có gian khổ nhưng cũng có niềm vui, vừa là thực vừa mang tính biểu tượng. Nó toát lên chất lãng mạn cách mạng đậm đà thật khó phân tích hết bằng lời.
Nhanh chóng vượt ra khỏi những cảm xúc lạc lõng buổi đầu, đến Đồng chí, Chính Hữu đã đóng góp cho nền thơ kháng chiến một bài thơ xuất sắc về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Nếu như trước đó chưa đầy một năm, anh bộ đội kháng chiến còn bước vào thơ Chính Hữu với “đôi giầy vạn dặm”, chiếc “áo hào hoa” thì giờ đây anh xuất hiện trong Đồng chí với chiếc áo rách vai, chiếc quần có vài mảnh vá, với đôi chân không giày và với tâm hồn mộc mạc, đằm thắm, đầy mến thương trong gian khổ. Đồng chí cũng thể hiện rõ phong cách thơ độc đáo của Chính Hữu: ít lời để gợi nhiều ý, ngòi bút biết tinh lọc, cô đúc trong từng chi tiết, từng hình ảnh để vừa cụ thể, vừa giàu tính khái quát, câu thơ chắc gọn bên ngoài lại ẩn chứa một tâm hồn thiết tha, da diết tự bên trong.
Văn Mẫu Lớp 12: Nghị Luận Về Sức Mạnh Của Lời Nói (2 Dàn Ý + 11 Mẫu) Sức Mạnh Của Lời Nói
TOP 10 mẫu Nghị luận về sức mạnh của lời nói mà chúng tôi giới thiệu sẽ giúp các bạn lớp 12 tự tin không phải lo nghĩ quá nhiều về việc làm sao để viết được bài văn hay, ấn tượng nhất.
Dàn ý nghị luận về sức mạnh của lời nói
Sức mạnh của lời nói
Nghị luận về sức mạnh của lời nói
Nghị luận sức mạnh của lời nói
Nghị luận về giá trị của lời nói
1. Mở bài
– Trên mặt đất này, con người chính là loài thông minh nhất, thống trị muôn loài.
– Con người có vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ sắc sảo.
– Họ còn có phương tiện giao tiếp quý giá là lời ăn tiếng nói.
2. Thân bài
a. Lời nói là gì?
– Là phương tiện giao tiếp bằng ngôn ngữ của con người, thể hiện ở dạng nói và dạng viết.
b. Giá trị, ý nghĩa của lời nói:
– Giúp con người hiểu nhau.
– Đem lại sự giúp đỡ, gắn bó, giúp con người làm việc, học tập, sáng tạo đạt hiệu quả.
– Lời nói có sức mạnh lớn lao trong mọi hoàn cảnh.
Dẫn chứng: câu nói của mẹ Tê-rê-sa.
c. Bài học cho mỗi người:
– Phải học tập và am hiểu về cách sử dụng ngôn ngữ.
– Rèn luyện nhân cách, phẩm chất tốt đề có cách ứng xử khéo léo, đặc biệt là khi dùng lời nói để giao tiếp.
– Câu ca dao về lời nói.
3. Kết bài
– Khẳng định giá trị và ý nghĩa lời nói.
– Phát huy giá trị của tiếng Việt!
1. Mở bài
Giới thiệu và dẫn dắt vào vấn đề cần nghị luận: câu nói Lời nói tuy vô hình nhưng có sức mạnh to lớn.
2. Thân bài
a. Giải thích
Ý câu nói: khuyên nhủ con người nên cẩn trọng trong lời nói của mình để tránh làm tổn thương người khác cũng như sứt mẻ mối quan hệ.
b. Phân tích
Lời nói là công cụ truyền đạt suy nghĩ trong đầu của chúng ta đối với người cùng ta giao tiếp. Lời nói thế nào, người hiểu sẽ luận nghĩa như vậy. Chúng ta nên suy nghĩ kĩ lưỡng trước khi nói điều gì đặc biệt là những điều có thể làm tổn thương người khác.
Dân gian có câu: “Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, chúng ta sẽ không hiểu được lời nói của mình có sức nặng thế nào đối với người khác, thế nên hãy chọn những lời nói nhẹ nhàng nhất.
Lời nói phản ánh thái độ của con người, hãy yêu đời, làm một người nhẹ nhàng, sống bình yên và đối xử dịu dàng với người khác.
c. Chứng minh
Học sinh tự lấy dẫn chứng về những người nói năng nhẹ nhàng, dễ nghe,… để minh họa cho bài làm văn của mình.
d. Phản đề
Tuy nhiên trong xã hội hiện nay vẫn còn có nhiều người không suy nghĩ kĩ càng trước khi nói gây ra tổn thương cho người khác. Có những người nói năng bậy bạ, gây phản cảm,… những người này đáng bị phê phán và cần phải sửa đổi.
3. Kết bài
Khái quát lại vấn đề nghị luận: câu nói Lời nói tuy vô hình nhưng có sức mạnh to lớn; đồng thời rút ra bài học và liên hệ bản thân.
Hằng ngày con người quan hệ giao tiếp với nhau bằng lời ăn tiếng nói. Vì vậy, lời nói đóng vai trò quan trọng trong việc khởi tạo những mối quan hệ tốt đẹp, xây dựng văn hóa giao tiếp của dân tộc. Sớm nhận thức được điều đó, ngay từ xưa ông bà ta đã có câu: “Lời nói gói vàng”, đồng thời cũng có câu: “Lời nói chẳng mất tiền mua – Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Đó cũng là lời nhắc nhở mọi người về giá trị của lời nói và cũng là lời khuyên về cách sử dụng lời nói làm sao cho ý nghĩa để đẹp lòng nhau.
Lời nói quả thật mang ý nghĩa cực kì to lớn trong cuộc sống. Người ta nói: “Lời nói gói vàng”, hiển nhiên không phải lời nói bọc vàng trong đó bởi lời nói là cái vô hình không phải vật thể rõ ràng mà có thể bọc chứa. Tuy nhiên lời nói ra có thể chứa những ý nghĩa quý báu, đáng quý hơn cả vàng bạc, vật chất. Lời nói ra đúng lúc, đúng nơi mang ý nghĩa to lớn. Một lời khuyên ngăn có lí, có tình có thể giúp một con người đang sa vào những con đường lầm lỡ quay đầu lại, giúp họ đi đúng con đường của mình, đưa cuộc đời họ ra ánh sáng mới. Một lời động viên an ủi cho những người không may, vấp phải khó khăn, bất hạnh trong cuộc sống giúp họ có thêm nghị lực để vươn lên, thấy mình được quan tâm và hạnh phúc. Chẳng phải như vậy không quý hơn vàng bạc sao? Lời nói cũng gắn kết con người với nhau, nó là biểu hiện của những tâm hồn đẹp. Có những người quý mến nhau, kết bạn chỉ đơn thuần vì lời nói là như thế. Những lời nói ra trở thành những câu nói bất hủ đi vào lịch sử bởi nó mang ý nghĩa sâu sắc, lớn lao tác động đến xã hội. Chẳng hạn như câu nói của Bác Hồ, Lê nin,…Chỉ cần một câu nói ý nghĩa có thể cứu vớt hàng triệu người lâm vào khủng hoảng, đường cùng. Từ đó ta thấy được giá trị to lớn của lời nói.
Lời nói quả thật ý nghĩa như vậy nhưng có phải nó tốn tiền gì để mua đâu. Lời nói xuất phát từ mỗi người, nó ảnh hưởng đến người đó và những người xung quanh họ. Nói sao để người khác nghe cảm thấy hài lòng, dễ chịu mới là cách nói của những người khéo léo. Cũng là lời nói, không phải dùng cái gì để mua nhưng tại sao lại quá nhiều người không biết dùng những từ ngữ đẹp, có giá trị để nói chuyện với nhau mà lại cứ nói chuyện lại làm cho người khác bực mình, khó chịu. Nhiều cuộc nói chuyện nhiều khi trở thành những cuộc đấu khẩu thậm chí là ẩu đả lẫn nhau cũng bởi lẽ đó. Do vậy, qua cách ăn nói với nhau hằng ngày người ta cũng đánh giá được mức độ tri thức văn hóa của con người. Vậy nên ông bà ta khuyên lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Hiển nhiên nói cho vừa lòng không phải những lời xu nịnh, sai sự thật để nghe cho sướng tai mà dễ chịu. Lời nói có giá trị mà làm vừa lòng nhau phải là những lời nói xuất phát từ tâm, mong muốn góp ý, xây dựng, kết hợp với cách nói năng phù hợp, gây được sự chú ý về tình cảm. Chỉ có những lời nói chân thành cùng nghệ thuật nói chuyện tốt mới đạt được hiệu quả giao tiếp.
Lời nói nằm trong tầm kiểm soát của mỗi người, muốn nói ra cho vừa lòng nhau thì phải “uốn lưỡi bảy lần trước khi nói” như ông bà đã dạy. Hãy suy nghĩ chín chắn trước mọi lời nói, bởi lời nói ra rồi không rút lại được. Nếu lỡ nói những câu không suy nghĩ có thể gây hại cho người khác hay chính bản thân ta. Phải rèn luyện cách nói chuyện, giao tiếp với mọi người thông qua học hỏi thêm nhiều từ mới, học cách nói chuyện hay của người khác, đồng thời giữ cho lời nói của mình luôn có giá trị. Tức là khi bạn nói ra câu gì người khác thường quan tâm lắng nghe, coi trọng nó. Để có được điều đó phải tạo được niềm tin với mọi người. Không thể nói những câu vô nghĩa, hời hợt suốt ngày, người ta sẽ đâm ra xem thường những gì bạn nói. Một điều quan trọng nữa là khi nói phải ở trong trạng thái tự tin và cảm thông chia sẻ với người khác. Có như vậy bạn mới lấy được lòng của người khác và được mọi người yêu quý.
Vậy nên, đúng như ông bà ta dạy “Lời nói gói vàng” và “Lời nói chẳng mất tiền mua – Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Hai câu tục ngữ này không hề mâu thuẫn mà ngược lại còn bổ sung ý nghĩa cho nhau. Đó là những kinh nghiệm ứng xử, giao tiếp của ông bà để lại. Chúng ta phải biết học hỏi để lời nói có giá trị và đẹp lòng mọi người.
Trên đời này, có một thứ mà sức mạnh của nó không thua kém gì một loại máy móc tối tân, một quả bom hiện đại hay một cục nam châm khổng lồ, đó chính là lời nói. Con người ta sinh ra, rồi lớn lên, ai cũng sẽ qua tuổi tập nói, sẽ qua cái tuổi “ nghĩ gì nói nấy” để đến với cái tuổi “nói thì phải nghĩ và nghĩ rồi mới nói”, họ sẽ đủ để nhận ra rằng, sức mạnh của lời nói thực sự ghê gớm, hơn cả những gì họ đang nghĩ. Lời nói có khi là kẹo ngọt dịu dàng, có khi là hoa hồng chứa gai nhọn nhưng nó cũng có thể là con dao sắc gây cho người khác bị tổn thương…
Lời nói có thể đưa một con người lên tận đỉnh của vinh quang, của sự sung sướng, có thể giúp cho họ thêm sức mạnh, niềm tin, hạnh phúc, giúp cho một người trong cơn tuyệt vọng trở thành người vững tâm, có thể giúp cho một đứa trẻ trưởng thành, một bệnh nhân thấy trong lòng ấm áp, quên đi nỗi sợ hãi – đau đớn của bệnh tật… Ngược lại, lời nói cũng có thể khiến cho người ta từ tuyệt vọng trở nên suy sụp hoàn toàn, làm tổn thương nặng nề, hay thậm chí, nó mang đến cái chết cho một người nào đó… Có khi ta lỡ lời, nhưng có những khi ta trở nên “độc ác”, ta muốn người nào đó thật đau khổ với điều mà ta đang nói nhưng ta không hề nghĩ tới hậu quả sau đó còn khủng khiếp hơn rất nhiều.
Đọc qua những bài báo, những cái chết có khi chỉ do một lời nói, một sự nghi oan không bằng chứng cũng đủ để tạo nên hồi chuông cảnh báo… Những bạn trẻ ở tuổi dậy thì, còn thay đổi rất nhiều về tâm sinh lý hay những người luôn phải chịu tiếng dư luận, mà bây giờ gọi là “ném đá”. Liệu ta có phải người trong cuộc? Liệu ta có phải là người hiểu rõ mọi chuyện? Đôi khi không! Nói cũng chỉ để nói, để thỏa mãn nhu cầu nói của mình mà không để ý tới cảm giác của người khác. Chỉ mong tới một ngày nào đó, bạn đặt mình vào vị trí của người kia, và hiểu cảm giác của họ khi họ phải chịu tổn thương, đau đớn do lời nói gây ra, bạn mới có thể biết rằng bạn sợ hãi, đau khổ cùng cực biết bao.
Hãy suy nghĩ trước khi nói, nói chậm, chắc một chút còn hơn nhanh nhảu mà hỏng chuyện. Hãy chấm dứt những cơn giận vô lý, sự nóng giận cũng sẽ làm cho lời nói sai lệch đi, không thể kiềm chế được… Lời nói không phải là dao nhưng cũng có thể người khác tổn thương nặng nề, nó cũng không phải là liều thuốc tiên nhưng có thể giúp người khác thoát ra khỏi sự tuyệt vọng, bệnh tật và mang lại hạnh phúc cho cuộc đời này.
Trong cuộc sống vốn vội vã, đôi khi người ta không có thời gian để nghĩ về những câu nói của bản thân với người khác. “Lời nói chân thành, đúng lúc chẳng khác gì phép màu, làm tái sinh sự sống trong một tâm hồn vốn đã héo khô”. Câu nói ấy là sự giải thích rõ ràng nhất về ý nghĩa của lời nói trong cuộc sống, như vậy, vì sao lời nói lại có sức ảnh hưởng to lớn đến con người như thế?
Chúng ta có thể hiểu rằng lời nói đơn giản chỉ là sự diễn đạt bằng ngôn ngữ ra ngoài để tạo thành một ý hoặc một văn bản hoàn chỉnh nhằm thực hiện một mục đích giao tiếp nào đó. Trong lời nói, ngoài giá trị về mặt ngữ nghĩa, lời nói còn thể hiện thái độ, hàm ý của chủ thể tạo ra nó. Bởi thế, xét đoán một lời nói trọn vẹn không phải là điều dễ dàng và để hiểu rõ mục đích giao tiếp mà người đối diện đang nhắc đến có lẽ cũng không phải điều gì quá ư dễ dàng, nhất là những câu nói mang đầy hàm ý.
Để tránh những câu nói làm tổn thương người khác thì bản thân chúng ta phải biết lựa lời nói cho đúng mực và phù hợp. Có những lời nói đã lựa lời uốn lưỡi nhưng cũng có lúc buột miệng nói ra trong lúc đang có một cảm xúc tiêu cực nào đó khiến người ta buồn, người ta thất vọng và sợ nhất là người ta mãi mãi hiểu lầm về nó. Thế mới biết giá trị của con người có khi chỉ được quyết định và đóng đinh trong vòng hai giây. Có những lời đùa cợt tưởng như vô hại, nhưng người nói nào ngờ một hai từ trong câu nói vui ấy rất vô tình đã chạm vào một nỗi đau thầm kín của người nghe. Lại có những lời châm chọc mỉa mai cố ý làm đau lòng người khác cho bỏ tức hay bỏ ghét, quả thực có tác dụng như vũ khí sát thương tâm hồn.
Có thể nhận thấy rằng lời nói và nụ cười là hai thứ dễ cho đi và hiệu quả nhanh nhất. Một câu nói nhẹ nhàng và ngọt ngào sẽ như một làn gió mát thổi vào lòng ai đó trong một ngày oi ả. Có người nói mà ta nghe từ cách xa qua điện thoại hay tiếp nhận lời bằng email vẫn có thể tưởng như nghe thấy tiếng cười hay nhìn thấy nụ cười trên môi mắt họ. Trong khi đó một câu nói nặng nề chua cay có thể khiến người nghe đau lòng và buồn bã không chỉ một ngày mà có khi “đau nặng từng lời nói” nhiều ngày bởi không phải ai cũng dễ buông bỏ và hỷ xả. Cuộc sống con người rất mong manh trong cõi trần gian vô thường. Còn nhìn thấy nhau, gặp nhau sao không nói với nhau những lời tử tế, chân thật. Để rồi khi xa nhau hay phải chia lìa ta sẽ không thấy ân hận, dằn vặt và ray rứt nghĩ lại khi còn gần nhau, khi người ta còn sống mình không nói được lời yêu thương.
Sức mạnh của lời nói là rất lớn, nếu chúng ta đủ nhận thức về vai trò của nó, chẳng hạn như khi người khác buồn phiền, một lời động viên đúng lúc có thể khiến họ vui lên, vơi bớt nỗi buồn đau. Họ cảm thấy được đồng cảm sẻ chia. Từ đó, tăng cường ở họ sức mạnh vươn lên và niềm tin vào cuộc sống. Khi người khác buồn phiền, đừng quay lưng lại với họ. Cũng không cần bạn phải làm gì lớn lao. Hãy kiên nhẫn nghe họ tỏ bày và có lời khuyên đúng đắn. Lời nói chân thành, đúng lúc chẳng khác gì phép màu, làm tái sinh sự sống trong một tinh thần vốn đã héo khô.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp đặc biệt, đôi khi bản thân chúng ta cũng buộc phải nói dối. Dẫu biết rằng nói dối là xấu, đi ngược lại với đạo đức và chuẩn mực làm người. Nhưng, trong một hoàn cảnh nào đó, ta phải buộc lòng nói dối để bảo vệ chân lí, bảo vệ con người. Bởi vậy, không nên cố chấp rằng người tốt nhất quyết không nói lời sai trái. Nếu lời nói dối có thể đem đến lợi ích lớn hơn lời nói thật thì đó lại là lời nói chân thành từ trái tim, lời nói của lương tri, thật đáng trân trọng.
Chúng ta trước khi muốn nói gì đó thì cần phải suy nghĩ thận trọng trước khi nói ra, để tránh làm tổn thương người khác. Mỗi lời nói của chúng ta đều ẩn chứa một sức mạnh vô hình. Hãy biết nói lời dễ nghe, đúng đắn và chân thành để bản thân được vui vẻ và nhận lại sự tôn trọng ở người khác. Cuộc sống ngắn ngủi, cớ gì phải gây cho nhau những tổn thương không nên có?
Người xưa từng khuyên rằng:
Lời nói tuy vô hình nhưng lại có tác động to lớn đối với chúng ta. Sức mạnh Của lời nói vượt xa những gì ta có thể nghĩ tới được. Bằng lời nói, ta có thể người khác thấy vui vẻ và hạnh phúc. Cũng bằng lời nói, ta có thể khiến người khác căm ghét và hận thù.
Lời nói là sự diễn đạt bằng ngôn ngữ nói tạo thành một ý hoặc một văn bản hoàn chỉnh nhằm thực hiện một mục đích giao tiếp nào đó. Trong lời nói, ngoài giá trị về mặt ngữ nghĩa còn có thái độ giao tiếp và hàm ý của nó. Bởi thế, xét đoán một lời nói trọn vẹn không phải là điều dễ dàng.
Không ai có thể phủ nhận được vai trò và sức mạnh của lời nói trong đời sống giao tiếp của con người. Nó không chỉ là một phương tiện giao tiếp, biểu lộ tâm tư, tình cảm mà còn là một phương tiện hữu hiệu để thực hiện các mục đích khác trong cuộc sống này.
Trước hết, lời nói là một phương tiện giao tiếp không thể thay thế được của con người. Chính khả năng biểu đạt tư duy bằng lời nói định sự khác biệt của con người và các loài vật khác. Không có lời nói, quá trình giao tiếp sẽ trở nên chậm chạp. và sẽ vô cùng bất tiện nếu thay thế lời nói bằng một phương thức giao tiếp khác.
Lời nói có sức mạnh gắn kết con người lại với nhau. Những lời nói tốt đẹp chẳng khác gì phép màu khiến người khác cảm thấy được thấu hiểu, được động viên mà vui vẻ. Lời nói sẻ chia tình cảm, giúp người khác hiểu mình và mình thêm hiểu người khác. Nó đâu chỉ là một phương tiện giao tiếp, trao đổi thông tin hay thực hiện các giao kết xã hội mà còn là phương tiện để con người bày tỏ tình cảm, thấu hiểu lẫn nhau.
Một lời nói đúng đắn có thể xua đi căng thẳng, hàn gắn được vết thương ở trong lòng. Lời nói tuy dễ thực hiện nhưng chứa đựng sức mạnh lớn lao. Khi xảy ra xung đột, một người biết nhượng bộ, dùng lời lẽ mềm dẻo để hòa giải tất sẽ không có bạo lực xảy ra. Việc lớn sẽ thành việc nhỏ, việc nhỏ trở thành không có. Không ai muốn xảy ra bạo lực hay gây tổn thương cho người khác. Nếu biết nói lời dễ nghe thì những điều đáng tiếc có thể đã không xảy đến.
Khi người khác buồn phiền, một lời động viên đúng lúc có thể khiến họ vui lên, vơi bớt nỗi buồn đau. Họ cảm thấy được đồng cảm sẻ chia. Từ đó, tăng cường ở họ sức mạnh vươn lên và niềm tin vào cuộc sống. Khi người khác buồn phiền, đừng quay lưng lại với họ. Cũng không cần bạn phải làm gì lớn lao. Hãy kiên nhẫn nghe họ tỏ bày và có lời khuyên đúng đắn. Lời nói chân thành, đúng lúc chẳng khác gì phép màu, làm tái sinh sự sống trong một tinh thần vốn đã héo khô.
Sức mạnh của lời nói thật không sao có thể đo đếm được. Bởi thế mà người xưa đã dùng lời nói đúng lúc, đúng chỗ, đúng người để gắn kết con người lại với nhau trong một mục đích, một nhiệm vụ, một chí hướng. Chỉ bằng bài Hịch tướng sĩ văn ngắn ngủi mà Trần Hưng Đạo đã kích động được lòng quân, giúp họ nhận thấy lỗi lầm, nhìn rõ nhìn vụ mà một lòng cùng chủ tướng quyết tâm đánh giặc cứu nước. Cũng chỉ bằng lời nói mà Nguyễn Trãi đã hàng phục biết bao thủ lĩnh, tướng sĩ bốn phương, giúp nghĩa quân Lam Sơn tăng cường sức mạnh mà không tốn một binh một lính nào.
Đôi khi ta cũng buộc phải nói dối. Dẫu biết rằng nói dối là xấu, đi ngược lại với đạo đức và chuẩn mực làm người. Nhưng, trong một hoàn cảnh nào đó, ta phải buộc lòng nói dối để bảo vệ chân lí, bảo vệ con người. Bởi vậy, không nên cố chấp rằng người tốt nhất quyết không nói lời sai trái. Nếu lời nói dối có thể đem đến lợi ích lớn hơn lời nói thật thì đó lại là lời nói chân thành từ trái tim, lời nói của lương tri, thật đáng trân trọng.
Có nhiều người lợi dụng những lời nó ngọt ngào, dễ nghe để thực che đậy bản chất xấu xa của mình. Ngược lại, có người không biết lời nói lời tốt đẹp hay cố tình dùng lời lẽ thô bỉ để sỉ nhục, gây tổn thương cho người khác. Những kẻ như thế thật đáng lên án.
Lời nói không tử tế có thể gây ra những vết thương lớn, không thể nào hàn gắn nổi. Một lời nói bất cẩn có thể nhóm lên xung đột. Một lời nói tàn nhẫn có thể phá hỏng một cuộc đời. Một lời nói cay độc chẳng khác gì là bạo lực tinh thần. Tác hại chẳng khác gì những hành động xâm phạm thân thể người khác.
Lời nói của những người xung quanh ta sẽ định hình tính cách của ta. Mỗi ngày một ít, cứ từ từ xâm chiếm, gặm nhấm tâm hồn ta. Rồi đến một ngày, nó chiếm lĩnh trọn vẹn tâm hồn con người.
Mỗi lời nói của chúng ta đều ẩn chứa một sức mạnh vô hình. Một lời động viên đúng lúc có thể giúp cho những người đang trong cơn bế tắc lấy lại tinh thần và vượt qua khó khăn. Nhưng cũng có những lời nói có thể giết chết một người đang trong cơn tuyệt vọng. Hãy biết nói lời dễ nghe, đúng đắn và chân thành để bản thân được vui vẻ và gây được điều vui vẻ ở người khác. Cuộc sống ngắn ngủi, cớ gì phải gây cho nhau những tổn thương không nên có. Lời nói chẳng mất tiền mua và luôn sẵn có trên môi. Thế nên, hãy biết lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
“Trong cuộc sống có bốn điều mà một khi ta đã bỏ lỡ thì không sao sửa chữa được:
– Khi hòn đá …đã ném đi
– Khi lời nói…đã buông ra
– Khi cơ hội …đã bỏ lỡ
– Khi thời gian …đã trôi qua”
Có nhiều lần tôi băn khoăn tự hỏi bản thân rằng: “Mình đã bao giờ thốt ra những lời gây tổn thương cho người khác chưa nhỉ?’’. Rồi! Mà hình như là nhiều lần thì phải để rồi những lần đó tôi thấy lòng mình nặng trĩu,cảm thấy bản thân mình thật vô tâm và ích kỉ mặc dù cố biện minh cho bản thân rằng: “Mình làm như vậy là đúng chẳng có gì phải suy nghĩ cả’’. Cho đến khi tôi đọc một câu chuyện và thấy chỉ với một lời khuyến khích, động viên đã giúp người thất bại, người không có niềm tin về bản thân trở nên vững vàng hơn trên con đường đời của mình tôi mới vỡ lẽ ra rằng: “Chẳng nhẽ một lời nói lại có một sức mạnh phi thường như vậy sao?.Nó có ảnh hưởng sâu sắc tới tâm lý con người đến thế?’’. Hàng trăm câu hỏi về một vấn đề cứ quanh quẩn trong đầu tôi và rồi tôi bắt đầu tìm hiểu và dần thấy được sức mạnh của một thứ vô hình –cái mà trước đây tôi chưa hề suy nghĩ về nó.
Chúng cứ hỏi mãi trong sự ngạc nhiên, lúng túng của con ếch nọ.Cuối cùng sự thật cũng được một con ếch già hé lộ rằng: Con ếch vừa thoát khỏi cái hố kia bị điếc và nó cứ nghĩ là những con ếch khác hò reo đang cổ vũ cho nó, và chính điều đó đã làm nên một sức mạnh kỳ diệu giúp cho nó tìm được sự sống mong manh trong cái chết.
Các bạn thấy đấy giản dị như vậy thôi nhưng câu chuyện đã gửi đến chúng ta một thông điệp đầy ý nghĩa: “Một lời động viên, khích lệ đúng lúc,đúng thời điểm có thể mang đến sức mạnh cho chúng ta trong bất cứ nghịch cảnh nào nhưng ngược lại một lời nói cay độc cũng có thể mang đến cái chết cho một ai đó trong lúc khó khăn.Vậy nên mỗi chúng ta phải biết cẩn thận với lời nói của mình”. Và nếu lỡ như một ngày nào đó bạn rơi vào hoàn cảnh tương tự như hai chú ếch trên kia, bạn cũng không phải bị điếc như chú ếch thắng cuộc trên thì cách tốt nhất là: “Bạn hãy bỏ ngoài tai những lời chỉ trích đó về bạn vì chính những lời nói đó sẽ giết chết mọi nổ lực của bạn nhanh hơn cả việc bạn gục ngã vì kiệt sức …”
Thành công, thất bại, gian nan, thử thách, đó mới chính là cuộc sống. Cuộc đời mỗi người là một dấu chấm hỏi lớn và ẩn sâu trong dấu chấm hỏi là cả một trời khó khăn. Có thể bạn là một người hoàn hảo trong mắt người khác nhưng liệu bạn có dám khẳng định rằng mình chưa bao giờ thất bại hay rơi vào hoàn cảnh bế tắc, tuyệt vọng. Với bản thân tôi đây cũng vậy, tôi cũng từng gặp, từng trải qua rất nhiều thất bại trong học tập cũng như trong cuộc sống. Vậy nếu là bạn ở trong hoàn cảnh đó, bạn có cần một lời chia sẻ,quan tâm không?. Chắc là có, con người ta dẫu mạnh mẽ đến đâu vẫn có những lúc yếu mềm, những lúc đó đối với tôi chỉ cần một ánh mắt cảm thông, một cái ôm ấm áp và đặc biệt một lời động viên, khích lệ chân thành cũng đã giúp tôi phần nào xua đi nỗi buồn, áp lực. Nhưng hình như trong xã hội hiện đại hôm nay, trong khi sự liên kết thông tin ngày càng phát triển,mạng lưới công nghệ ngày càng lấn chiếm cuộc sống thực tại, sự ra đời của hàng trăm ứng dụng hiện đại, thông minh thì sợi dây gắn kết giữa mỗi con người với nhau lại đang bị rạn nứt dần, sự quan tâm, chia sẻ đang bị mất dần và thay vào đó là lối sống vô cảm, ích kỉ -những thứ rác rưởi đó sẵn sàng ăn mòn nhân cách, hủy hoại cả xã hội. Cuộc sống công nghệ hiện tại đã làm con người thay đổi quá nhiều và trong bản tính của mỗi người lời cảm ơn và xin lỗi dần phai nhạt đặc biệt là với tuổi trẻ hiện nay. Đã bao giờ bạn tự hỏi bản thân rằng: “Mình đã nói những câu đó bao nhiêu lần rồi nhỉ,những lời đó mình thốt ra là có thật lòng hay không?”. Vậy đó chúng ta đã mất đi thói quen nói lời cảm ơn, xin lỗi. Đặc biệt theo suy nghĩ của tôi đây là vấn đề nghiêm trọng với tuổi trẻ hiện nay. Đã có lần tôi đề cập về vấn đề này với các anh chị hơn tuổi và nhận được câu trả lời rằng họ không thể thốt ra những lời cảm ơn hay xin lỗi. Tại sao? Tại sao họ không làm được điều đó? Phải chăng vì lòng tự trọng của họ quá cao hay mỗi khi thốt ra những lời đó họ thấy giả tạo, ngài ngại? Ừ thì ngại, ngại đấy nhưng họ có tự thấy xấu hổ với bản thân mình không? Tại sao một con người có học thức lại không biết nói lời cảm ơn, xin lỗi?. Vậy thì các bạn học đạo đức, giáo dục công dân để làm gì?. Để lãng phí, để tiêu hao thời gian,công sức và tiền bạc.
Lời cảm ơn, xin lỗi là một bài học quan trọng trong giao tiếp –bài học về phép lịch sự mà mỗi chúng ta cần phải có nhưng dường như nó đang bị các bạn trẻ hiện nay quên lãng. Tôi là một người rất giàu lòng tự trọng nhưng nhiều lúc tôi phải vứt bỏ cái tôi cá nhân sang một bên để nói lời xin lỗi trước hành động sai của mình và nói lời cảm ơn khi được người khác giúp đỡ. Hai tiếng cảm ơn –xin lỗi trở nên lạ lẫm, xa lạ trong xã hội hiện nay. Chúng ta đang sống ở thế kỉ XXI – một thế kỉ văn minh và hiện đại nhưng nền tảng đạo đức đã bị phai dần. Lời cảm ơn hay xin lỗi đang thưa thớt dần. Hình như người ta không biết đến hay cố tình lãng quên đi một nét đẹp của nền văn hóa. Chúng ta được sinh ra với một con người khỏe mạnh, được lớn lên trong lời ru tiếng hát của mẹ và bờ vai che chở vững chãi của bố vậy có ai nghĩ rằng mình sẽ hoàn hảo hơn nếu mình biết yêu thương, biết quan tâm, chia sẻ và biết nói lời cảm ơn xin lỗi – hai từ ngắn gọn nhưng nó mang lại ý nghĩa vô cùng sâu sắc nếu ta sử dụng đúng thời điểm. Hãy bắt đầu đi, bắt đầu tập cách sống quan tâm, yêu thương người khác và thốt ra những lời xin lỗi sau mỗi sai lầm của mình, lời cảm ơn khi nhận được sự giúp đỡ – với bất cứ ai.
Qua câu chuyện về hai chú ếch,về việc nói lời xin lỗi – cảm ơn của tuổi trẻ hiện nay như một tấm gương sáng để ta soi lại chính mình, giúp tôi hiểu được sức mạnh khủng khiếp của lời nói, hình như tôi nhận ra rằng mình đã lớn, lớn hơn trong cách suy nghĩ, cách nhận biết và cách viết. Mình đã biết nghĩ,biết bày tỏ thái độ, cảm xúc và đặc biệt biết lên án trước một vấn đề trong hàng trăm vấn đề phức tạp của xã hội.
Trong giao tiếp hàng ngày, một số chúng ta thường quên đi hay bỏ qua sức mạnh của ngôn từ. Chúng ta thường không chú tâm lắm đến tác động về mặt cảm xúc mà một từ, một lời nói có thể tạo ra làm ảnh hưởng đến các mối quan hệ. Khi nói chúng ta có khuynh hướng vội vàng thốt ra mà không biết đến hiệu lực tại lời Chúng ta không nghĩ rằng một lời thốt ra có thể kết nối, hàn gắn, yêu thương, mang 2 hay nhiều người đến gần nhau trong sự đồng cảm, hay ngược lại làm họ tan nát, đẩy trái tim họ xa nhau.
Chỉ một từ ngữ có thể khơi dậy niềm vui, hứng thú, ngạc nhiên, đồng tình, tích cực, mong đợi và tin tưởng. Ngược lại ngôn từ có thể gây sợ hãi, tức giận, tiêu cực, nghi ngờ, tiếc nuối, và buồn đau. Việc chọn từ ngữ cho lời ăn tiếng nói trong một số trường hợp có thể làm thay đổi vĩnh viễn một mối quan hệ và hành trình bạn đang đi. Chúng ta quên rằng dù ta cố gắng đến đâu, một lời khi đã thốt ra, không thể lấy lại. Kết quả của lời nói, như mũi tên lao đi vun vút- nhưng mũi tên bắn đi có thể không trúng đích và không gây tổn hại, nhưng tác dụng tốt hay xấu trong thông điệp lời nói của chúng ta có hiệu quả gần như tức thì.
Có những lời đùa cợt tưởng như vô hại, nhưng người nói nào ngờ một hai từ trong câu nói vui ấy rất vô tình đã chạm vào một nỗi đau thầm kín của người nghe. Lại có những lời châm chọc mỉa mai cố ý làm đau lòng người khác cho bỏ tức hay bỏ ghét, quả thực có tác dụng như vũ khí sát thương tâm hồn.
Thử hỏi có bao nhiêu trong số người nghe những câu đùa hay châm chọc ấy có bản lĩnh biết mình biết người, không cố chấp sẽ không nóng mặt hay tự ái mà bỏ qua cho câu đùa cợt vô tâm ấy? Ngược lại, đã có nhiều người quá nóng nảy, nổi khùng lên và “ăn miếng trả miếng” để rồi dẫn đến những phản ứng đáng tiếc của cả hai.
Ai cũng biết câu ca dao này :
Đây chính là sức mạnh của hiệu lực tại lời. Việc làm, các mối quan hệ gia đình và xã hội, đời sống tình cảm của chúng ta có thể bị ảnh hưởng và thay đổi nhiều từ cách ăn nói của chúng ta.
Lời nói và nụ cười là hai thứ dễ cho đi và hiệu quả nhanh nhất. Một câu nói nhẹ nhàng và ngọt ngào sẽ như một làn gió mát thổi vào lòng ai đó trong một ngày oi ả. Có người nói mà ta nghe từ cách xa qua điện thoại hay tiếp nhận lời bằng email vẫn có thể tưởng như nghe thấy tiếng cười hay nhìn thấy nụ cười trên môi mắt họ. Trong khi đó một câu nói nặng nề chua cay có thể khiến người nghe đau lòng và buồn bã không chỉ một ngày mà có khi “ đau nặng từng lời nói” nhiều ngày bởi không phải ai cũng dễ buông bỏ và hỷ xả. Cuộc sống con người rất mong manh trong cõi trần gian vô thường. Còn nhìn thấy nhau, gặp nhau sao không nói với nhau những lời tử tế, chân thật. Để rồi khi xa nhau hay phải chia lìa ta sẽ không thấy ân hận, dằn vặt và ray rứt nghĩ lại khi còn gần nhau, khi người ta còn sống mình không nói được lời yêu thương.
Cũng xin nói rằng đắc nhân tâm bằng lời nói là tốt nhưng lời nói ấy phải chân thành. Nói những lời tốt lành nhưng đừng giả dối, đầu môi chót lưỡi. Những lời tâng bốc để mua lòng người, những viên thuốc độc bọc đường sẽ gây hại nhưng sớm muộn rồi người ta sẽ nhận biết bản chất giả dối, tác hại của chúng. Trong khi đó nhiều khi lời nói thẳng, nói thật có thể khiến người nghe không vừa ý. Vẫn biết “Lời thật mất lòng” nhưng nếu ta chọn cách nói và thời điểm nói thích hợp và chân thành thì lời thật ấy có thể vẫn được người nghe tiếp thu và suy nghĩ để sửa đổi. Về phía người nghe cũng nên bình tĩnh suy xét lời nói đến tai ta. Khi ta nghe, ta cố gắng để hiểu hoàn cảnh, thời gian và nguyên cớ của lời nói. Có người nói một lời thẳng thắn, không phải là lời khen ngợi, mà là lời nhắc nhở hay chỉ ra cho ta cái sai sót của ta, ta nên biết tiếp thu lời thực ấy. Còn có người cách nói năng không được nhẹ nhàng êm ái, nhưng tâm họ rất lành và họ nói không chút ác ý. Với những người ấy ta cần hiểu bản chất của lời nói và tâm tính người nói để chắt lọc và bỏ qua những phần chưa hay của lời họ nói.
Ngoài ra một điều quan trọng là “ Lời nói phải đi đôi với việc làm”. Đừng thuyết giảng, dạy đời người ta phải yêu thương con người, anh em, bạn hữu mà hành động của mình thì mâu thuẫn đến độ mình không yêu thương ngay đến gia đình mình, những người sống quanh mình. Như thế là người hai mặt và đạo đức giả như kiểu Nhạc Bất Quần trong truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Nhưng dưới ánh mặt trời không có gì có thể che đậy được và dòng chảy của thời gian sẽ giúp người ta nhận ra bản chất của lời nói, cũng như nhân cách của một con người.
Mong sao tất cả chúng ta luôn có tâm an hoà và biết nói lời thật dễ nghe, những lời đẹp không giả dối, để đem niềm vui đến cho người và đến lượt mình niềm vui của việc cho đi và nhận lại ái ngữ.
Lời nói có một sức mạnh khôn lường, có thể làm ta vui, ta buồn, làm ta đau đớn tuyệt vọng hoặc hài lòng và cũng nhiều khi, một lời nói vô ý có thể giết chết một con người. “Giết” ở đây không hẳn theo nghĩa đen mà còn có nghĩa “giết chết” tâm hồn, niềm tin, niềm hy vọng. Một con người sống mà đánh mất mình, không còn niềm tin và hy vọng vào cuộc đời, chẳng phải là đã chết hay sao?
Nó từng chứng kiến rất nhiều tình huống, thậm chí, đã là người trong cuộc. Có những câu nói đã, đang và sẽ theo nó cho đến hết cuộc đời để mỗi lần nhớ lại, nó thấy mình thêm mạnh mẽ, thêm tin yêu và thấy cuộc đời còn nhiều điều đáng sống. Những lời nói ấy là từ người thân yêu, người sơ giao và cả người mới gặp lần đầu. Có lời nói nó muốn tin, có lời nó muốn gạt bỏ, có lời nó ghi lại vào một quyển sổ con con và có lời nó chôn chặt trong tim, không bao giờ muốn cào xới lên thêm nữa.
Cũng như mọi người, nó đã có rất nhiều câu nói để người khác nhớ. Có những lời nó đã lựa lời uốn lưỡi nhưng cũng có lúc nó buột miệng nói ra trong lúc đang có một cảm xúc tiêu cực nào đó khiến người ta buồn, người ta thất vọng và sợ nhất là người ta mãi mãi hiểu lầm về nó. Thế mới biết giá trị của con người có khi chỉ được quyết định và đóng đinh trong vòng hai giây.
Nó là một người rất để ý đến ngôn từ vì nó hiểu sức mạnh ngầm ẩn chứa sau đó. Một lời động viên đúng lúc đủ khiến con người ta thay đổi, dám nghĩ, dám làm và đạt được thành công. Một lời chê bai hiềm khích cũng khiến một tâm hồn trong trắng mang một vết chàm, đáng sợ hơn khi ta không quên được điều đó và mỗi lần nghĩ đến, tất cả lại gieo vào tâm trí ta những hằn học, những tự ti, mưu toan tội lỗi. Một lời nói ích kỷ, phán xét chưa thấu tình đạt lý dễ khiến con người ta mang một nỗi tổn thương, một vết cứa và khiến họ day dứt trong suốt những năm tháng về sau.
Tuy nhiên, có ai hiểu rằng đằng sau mỗi lời nói đó có điều gì đang ẩn chứa? Đôi khi vì một lý do thầm kín nào đó mà ta buộc phải nói ra những lời ta không mong muốn để đánh đổi lại sự bình yên, thanh thản cho một gia đình, một tâm hồn. Những lời nói dối đó, suy cho cùng đều chứa đựng sự ích kỷ. Làm sao họ biết người nghe sẽ thanh thản, làm sao họ biết những lời nói ấy sẽ mang lại điều gì, bình yên hay sóng gió trong tương lai bởi đó là điều không ai biết trước. Người ta tự lái số phận của mình bằng một lời nói mà họ thường ngụy biện rằng đã được suy nghĩ rất lâu và cẩn trọng. Lâu và cẩn trọng nhưng lại ích kỷ thì có ý nghĩa gì?
Thế nên, hãy thật cẩn thận với lời nói của mình bởi bạn đang sở hữu một con dao sắc bén, có thể gây ra những thương tổn về tinh thần và thể xác. Hãy biến lời nói thành những hạt giống, gieo vào lòng người nghe những thanh âm ngọt ngào để thế giới này tốt đẹp, nhân từ và vị tha hơn. Và nếu có thể, hãy nói thật! Bởi sự thành thật luôn được đánh giá cao, chứng tỏ được sự trưởng thành và trách nhiệm đối với chính lương tâm của mình.
“Lời nói chân thành, đúng lúc chẳng khác gì phép màu, làm tái sinh sự sống trong một tâm hồn vốn đã héo khô.” Câu nói ấy là sự giải thích rõ ràng nhất về ý nghĩa của lời nói trong cuộc sống, như vậy, vì sao lời nói lại có sức ảnh hưởng to lớn đến con người như thế?
Lời nói là sự diễn đạt bằng ngôn ngữ để tạo thành một ý hoặc một văn bản hoàn chỉnh nhằm thực hiện một mục đích giao tiếp nào đó. Trong lời nói, ngoài giá trị về mặt ngữ nghĩa, lời nói còn thể hiện thái độ, hàm ý của chủ thể tạo ra nó. Bởi thế, xét đoán một lời nói trọn vẹn không phải là điều dễ dàng và để hiểu rõ mục đích giao tiếp mà người đối diện đang nhắc đến có lẽ cũng không phải điều gì quá ư dễ dàng, nhất là những câu nói mang đầy hàm ý.
Trước hết, lời nói được coi là một phương tiện giao tiếp cơ bản và bản năng nhất của riêng con người chứ không phải bất cứ loài động vật nào khác. Nó giúp con người biểu đạt những suy nghĩ và cách hiểu của mình, để mọi người có thể thấu hiểu những gì đối phương đang muốn thể hiện. Chúng ta giao tiếp hằng ngày với nhau bằng lời nói và chính lời nói lại trở thành một công cụ hữu hiệu và phổ thông nhất để loài người có thể tiếp cận đến suy nghĩ của nhau. Không có lời nói thì quá trình giao tiếp của ta sẽ trở nên chậm chạp và sẽ vô cùng khó khăn khi thay thế lời nói bằng một phương tiện giao tiếp khác.
Lời nói có khả năng tác động mạnh mẽ đến người khác hay với chính bản thân ta. Lời nói có khi là kẹo ngọt dịu dàng, có khi là hoa hồng chứa gai nhọn nhưng nó cũng có thể là con dao sắc gây cho người khác bị tổn thương. Lời nói có thể đưa một con người lên tận đỉnh của vinh quang, của sự sung sướng, có thể giúp cho họ thêm sức mạnh, niềm tin, hạnh phúc, giúp cho một người trong cơn tuyệt vọng trở thành người vững tâm. Ngược lại, lời nói cũng có thể khiến cho người ta từ tuyệt vọng trở nên suy sụp hoàn toàn, làm tổn thương nặng nề, hay thậm chí, nó mang đến cái chết cho một người nào đó. Có khi ta lỡ lời, nhưng có những khi ta trở nên “độc ác”, ta muốn người nào đó thật đau khổ với điều mà ta đang nói nhưng ta không hề nghĩ tới hậu quả sau đó còn khủng khiếp hơn rất nhiều. Chúng ta hay bị tổn thương bởi những lời nói dị nghị của những người xung quanh và chúng ta cũng rất dễ mỉm cười khi nghe những lời có cánh. Vì thế, lời nói được ví như một bông hồng, tuy có lúc nhan sắc của nó thật tuyệt với những cánh hoa mịn màng như nhung, nhưng có lúc chúng lại trở thành những lớp gai nhọn sẵn sàng xuyên thấu và làm đau ta bất cứ lúc nào. Vì vậy, những lời nói có khả năng tác động to lớn đến một con người, cho nên mỗi khi ta định nói lên một điều gì đó, cần biết “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”, phải biết rằng lời nói của mình sẽ đem đến điều gì nếu nó được nói ra. Bởi lẽ đôi khi sự vô tư quá mức lại khiến chúng ta thốt ra những lời nói không đáng nói, những lời không đáng được nghe.
Bởi mức độ ảnh hưởng to lớn như vậy nên trong cuộc sống, ta luôn phải biết cẩn trọng trước những lời nói của mình. Có những lúc ta buộc phải nói dối, như cách mà một vị bác sĩ nói dối về bệnh tật của một bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, nhưng cần nhất vẫn là lúc chúng ta sống thật với chính mình, nói ra những lời thật lòng. Tuy nhiên đó không phải là thứ phát ngôn nhất thời của cảm xúc, chúng ta nói phải biết trước biết sau, biết thế nào là đúng, thế nào là không gây ác cảm cho mọi người. Những lời nói kia tuy đơn giản mà chẳng hề giản đơn, nó có thể trở thành thước đo nhân cách cho bất cứ ai vào bất kì thời điểm nào.
Mỗi lời nói của chúng ta đều ẩn chứa một sức mạnh vô hình. Hãy biết nói lời dễ nghe, đúng đắn và chân thành để bản thân được vui vẻ và nhận lại sự tôn trọng ở người khác. Cuộc sống ngắn ngủi, cớ gì phải gây cho nhau những tổn thương không nên có?
Ông cha ta đã đúc kết rằng ” lời nói gói vàng”. Chỉ bằng cách so sánh mà đã gợi giá trị to lớn của lời nói trong cuộc sống, mỗi lời nói vô hình có giá trị như một gói vàng- một trong những kim loại quý nhất trên thế giới.
Vậy chúng ta phải làm gì để phát huy giá trị của lời nói? Dân gian đã đúc rút: “Uốn lưỡi bảy lần trước khi nói” tức là mỗi lời ta nói ra phải có mục đích, có chủ ý và được biểu đạt một cách lịch sự, tế nhị nên trước khi nói điều gì, bạn hãy suy nghĩ thật chín. Lời nói dại dột nhất được bật ra là khi ta đang có những cảm xúc tiêu cực như tức giận, nóng nảy, ghen tuông… bởi khi đó rất hiếm người làm chủ và kiềm chế được bản thân. Vốn dĩ “Lời nói chẳng mất tiền mua” nên hãy “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Sử dụng lời nói đúng lúc, đúng chỗ, đúng mục đích sẽ đạt được hiệu quả giao tiếp cao và để lại thiện cảm trong lòng người khác. Lời ăn tiếng nói là một kĩ năng sống quan trọng, cần thiết nhưng không phải ngày một ngày hai mà ta có thể ăn nói văn hóa mà đó là cả một quá trình rèn luyện, tiếp thu và học hỏi để hoàn thiện bản thân. Ngày nay, khi đất nước đang hội nhập cùng thế giới, con người cũng nên trau dồi cho bản thân vốn ngoại ngữ song cũng không nên bỏ quên ngôn ngữ mẹ đẻ, hội nhập để làm phong phú cho vốn tiếng Việt.
Tôi và bạn, những người trẻ tuổi hãy bắt đầu trau dồi lời hay ý đẹp ngay từ bây giờ bởi ông cha ta đã dạy “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Bởi vì giá trị của lời nói trong cuộc sống thật to lớn.
Advertisement
Xưa nay, không ít người chỉ bằng lời nói mà làm nên việc lớn. Cũng không ít người chỉ vì lời nói mà rước họa vào thân. Mới hay, lời nói tuy vô hình nhưng có sức mạnh xoay chuyển càn khôn, điên đảo trời đất. Làm người biết được sức mạnh của lời nói mà sống cho phải đạo lí, biết tu dưỡng lấy mình mới mong có cuộc đời êm đẹp, thanh bình.
Lời nói là sự diễn ngôn ngữ được biểu hiện dưới dạng nói. Lời nói là hình thức giao tiếp quan trọng nhất của con người. Ngôn ngữ giao tiếp được biểu hiện dưới dạng lời nói mang những đặc trưng riêng, có tính tùy biến cao để phù hợp với từng hoàn cảnh và đối tượng giao tiếp nhằm hướng đến một hiệu quả giao tiếp ngắn gọn và cao nhất.
Với sự hỗ trợ đắc lực của ngữ điệu, thái độ trong giao tiếp, lời nói phát huy sức mạnh to lớn trong việc thực hiện việc trao đổi thông tin trong giao tiếp, đồng thời bộc lộ tư tưởng, tình cảm của con người. Lời nói toe ra đầy sức mạnh trong từng hoàn cảnh giao tiếp và mục đích của người nói. Một lời động viên đúng lúc có thể giúp cho những người đang trong cơn bế tắc lấy lại tinh thần và vượt qua khó khăn. Nhưng cũng có những lời nói thiếu trách nhiệm và tình thương có thể giết chết một người đang trong cơn tuyệt vọng. Lời nói tuy không có hình thể, nhưng có tác động mạnh mẽ đối với con người.
Bởi thế, xưa nay, con người luôn rất cẩn trọng mỗi khi nói thành lời. Người xưa có câu:
Ngoài chức năng trao đổi thông tin, lời nói còn là phương tiện để gắn kết tình cảm của con người. Nhờ lời nói tốt đẹp mà tình cảm con người trở nên tốt đẹp, thân thiện và bền vững hơn. Chính nhờ lời nói mà con người thấu hiểu, đồng cảm lẫn nhau, tăng cường tình yêu thương trong xã hội.
Con người đã biết vận dụng sức mạnh vô hạn của lời nói để thành công trong công việc và trong đời sống. vận dụng sức mạnh của lời nói để thành công là mọt lựa chọn thông minh bởi lời nói luôn sẵn có ở mỗi con người. Nó không cần phải chuẩn bị dài lâu hay vận động từ những nguồn lực khác. Người nói luôn chủ động điều chỉnh trong mọi tình thế làm cho nó tốt hơn, hiệu quả hơn, phù hợp hơn với mục đích giao tiếp của mình.
Trên thế giới cũng không ít người bằng lời nói mà đạt được mục đích của mình. Hitler chỉ bằng lời nói mà lấy được niềm tin của thanh niên Đức, khiến họ tin tưởng vào sứ mệnh làm thay đổi thế giới, hăng hái ra chiến trường chiến đấu, phục vụ mưu đồ của bọn phát xít. Cái tài của Hitler là chỉ bằng lời nói mà có thể lừa dối cả dân tộc Đức, thực hiện tham vọng bá chủ thế giới. Lãnh tụ Lenin với bài diễn thuyết đầy bản lĩnh, hùng hồn và thuyết phục đã khiến cho toàn thể giai cấp vô sản nước Nga tin vào một tương lai tươi sáng với đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản và con đường giải phóng dân tộc, tiến lên xây dựng đất nước Chủ nghĩa xã hội.
Và còn biết bao nhiêu câu chuyện khác nữa về sự thành công vang dội của các vĩ nhân khi họ phát huy sức mạnh phi thường của lời nói. Thế nhưng, lời nói chỉ phát huy sức mạnh hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào mục đích của lời nói và bản lĩnh của người thực hiện lời nói. Mục đích của hành động nói phải tốt đẹp, hướng vào số đông, phục vụ lợi ích của số đông. Người thực hiện hành động nói phải là người uy tín, trí tuệ, được mọi người hết mực tin tưởng thì điều kì diệu ấy mới xảy ra được.
Lời nói vô hình nhưng sắc như dao nhọn và độc hơn rắn rết. Những lợi ích nó mang lại là hết sức lớn lao và những tổn thương của nó cũng rất khủng khiếp, không thể lường trước hết được. Bởi thế, hãy cẩn thận với những gì mình nói. Đừng hủy diệt tinh thần của một người đang trong hoàn cảnh khốn khó bởi những lời nói tiêu cực của mình. Thay vào đó, hãy biết dành thời giờ để động viên và khích lệ họ.
Việc thành bại đâu chỉ có chí lớn mà thành. Trước là để nắm vững cơ hội, sau là lời nói thuận lòng người. Cuộc sống của chúng ta và mọi người xung quanh trở nên như thế nào tùy thuộc vào chính thái độ và những lời nói của chúng ta. Bởi thế, hãy uốn lưỡi bảy lần trước khi nói để không phải hối hận.
Muốn phát huy được sức mạnh của lời nói không gì quan trọng hơn là ý thức rõ ràng về sức mạnh (tích cực và tiêu cực ) của nó. Biết cái lợi để mà tận dụng, phát huy. Biết cái hại để mà hạn chế, né tránh, không gây tổn hại cho người khác và cho bản thân mình.
Nên vận dụng lời nói đúng lúc, đúng đối tượng giao tiếp. Linh hoạt trong lời nói để đạt được mục đích cao nhất nhưng không vì thế mà giảo hoạt, giả dối, lừa bịp người khác. Phải có lập trường vững vàng trong giao tiếp.
Luôn ý thức nâng cao bản lĩnh trong giao tiếp. Nói lời thì phải giữ lấy lời. Không nên ngụy biện khi mình sai trái. Thành thật trong lời nói giúp ta được người khác tin tưởng, yêu thương và giúp đỡ để thành công.
Phát hiện và kiên quyết chống lại những kẻ dùng lời nói để mưu lợi cho bản thân hoặc hãm hại người khác. Thực hiện lối sống lành mạnh, tiến bộ, ngôn phong chuẩn mực trong cộng đồng.
Lời nói có thể làm con người đẹp hơn hay trở nên xấu xí hơn trong mắt người khác. Tất cả phụ thuộc vào những gì bạn nói và cách bạn nói với mọi người.
Trong cuộc sống, có nhiều người lợi dụng sức mạnh của lời nói để lừa dối, mưu lợi cho bản thân hoặc hãm hại người khác. Có nhiều người thiếu cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói, để kẻ khác lợi dụng khiến bản thân rơi vào nguy hiểm, tai họa đến nỗi tan nhà nát cửa. Những người như thế thật đáng chê trách.
Kiếm có thể làm tổn thương thân thể, lời nói có thể làm tổn thương tâm hồn. Một lời bất cẩn có thể nhóm lên xung đột. Một lời tàn nhẫn có thể phá hỏng một cuộc đời. Một lời đúng lúc có thể xua đi căng thẳng. Nhưng một lời yêu thương có thể chữa lành và chúc phúc. Hãy luôn ý thức trách nhiệm của mình khi nói và nên nói những lời đúng đắn và tốt đẹp để gắn kết tình người trong cuộc sống này.
Trên mặt đất này, trong muôn loài, thì loài người là thông minh và mạnh mẽ nhất. Họ thống trị muôn loài bằng trí tuệ và tâm hồn sắc sảo của mình, tạo nên những giá trị tuyệt đẹp của cuộc sống. Họ còn có phương tiện giao tiếp quý giá là lời ăn tiếng nói, đây chính là phương tiện quan trọng để kiến tạo các mối quan hệ người – người, truyền đạt thông tin,…
Lời nói là gì? Từ rất lâu trong lịch sử nhân loại, ngôn ngữ đã được hình thành qua quá trình lao động sản xuất, chinh phục thiên nhiên, xây dựng mối quan hệ cộng đồng. Con người dùng ngôn ngữ để bày tỏ tư tưởng tình cảm của bản thân với những người xung quanh. Từ đó, loài người hiểu và thêm yêu thương gắn bó với nhau.
Như vậy, giá trị và ý nghĩa của lời nói thật vô cùng to lớn. Lời nói được thốt ra từ trí tuệ và tâm tư của người này sẽ đến được với trí tuệ và tâm tư người khác. Đó là phương tiện kết nối vô cùng quan trọng. Lời nói sẽ đem lại sự giúp đỡ giữa người và người, nâng đỡ tinh thần, an ủi khi buồn, chia sẻ khi vui. Những sức mạnh tinh thần mà lời nói đem lại sẽ giúp con người chúng ta vượt qua nhiều thử thách, có thể học tập, lao động, sáng tạo tốt hơn, gặt hái nhiều thành tựu hơn. Trong khoa học, lời nói giúp chuyển tải các quan điểm nghiên cứu để khoa học được tiếp thu, phát triển. Trong công việc, lời nói là cách thức trao đổi làm việc nhóm, góp ý, động viên nhau; trong đời thường, lời nói là sự bày tỏ yêu thương, chia sẻ cùng nhau. Cũng có lúc giận hờn, con người dùng lời nói làm tổn thương nhau, điều đó thật đáng buồn, vì lời nói vô hình nhưng có khi sắc bén như gươm đao gây ra những vết thương lòng khó lành được. Bởi vậy, phải biết dùng lời nói để đem lại niềm vui, không nên dùng lời nói như một thứ vũ khí trong cuộc sống đời thường của mỗi chúng ta. Chính vì thế, ông bà ta khuyên con cháu rằng:
“Khôn” ở đây chính là chỉ người thông minh, khéo léo thì ắt am hiểu giá trị và ý nghĩa của lời nói. Có thể nói, sức mạnh lớn lao của lời nói thể hiện trong mọi hoàn cảnh cuộc sống con người. Đặc biệt là những lời nói chân chính, lan tỏa yêu thương. Mẹ Teresa, nữ tu cả đời cống hiến cho tình yêu thương con người đã từng nói rằng: “Lời nói tử tế có thể ngắn và dễ nói, nhưng tiếng vọng của chúng là vĩnh cửu”!
Vậy bài học rút ra cho con người, đặc biệt là người trẻ, là phải năng nói lên những “lời tử tế”, đó là những lời nói có suy nghĩ, thốt ra từ tấm lòng chân thành, ngay thẳng và trung thực. Mỗi lời nói như vậy sẽ như một bông hoa tươi nở giữa đời thường của cuộc sống, đem lại hạnh phúc và niềm tin cho tất cả chúng ta. Nhưng để vận dụng lời nói như một phương tiện giao tiếp hiệu quả, phương tiện trao gửi tư tưởng và tình cảm, cũng không phải tự nhiên mà làm được. Trước tiên, mỗi bạn trẻ phải năng trau dồi kiến thức về ngôn ngữ. Phải biết phát âm đúng, dùng từ hay, câu văn truyền cảm, cách nói năng phải mạch lạc khúc chiết. Không phải tự nhiên ta có thể đạt được những điều đó, nếu không ra sức học hỏi, ở trên ghế nhà trường và cả trong cuộc sống. Để có được những lời nói có giá trị và ý nghĩa cao đẹp, con người còn phải rèn luyện nhân cách, trau dồi phẩm chất của bản thân. Một bạn trẻ thì cần rèn luyện tính cách ôn hòa, kiên nhẫn, luôn tôn trọng mọi người, biết khiêm tốn, bao dung với người khác mà nghiêm khắc với chính mình. Khi đó, chúng ta mới có thể giao tiếp bằng lời nói một cách văn minh, lịch sự, đạt hiệu quả cao nhất. Và chúng ta mới hiểu hết ý nghĩa những lời nói tốt đẹp, hiểu được câu ca dao quen thuộc sau đây:
Như vậy, lời ăn tiếng nói luôn cần phải văn minh, thanh lịch. Có lẽ bao giờ con người còn hiện diện trên mặt đất này thì cũng không thể thiếu được vai trò của lời nói, để gắn kết và yêu quý nhau hơn. Người Việt chúng ta yêu quý tiếng mẹ đẻ, quyết tâm gìn giữ sự trong sáng của tiếng Việt. Mà muốn gìn giữ sự trong sáng đó, trước tiên, chúng ta cần học cách sử dụng lời nói thật đúng đắn, thật hay. Hãy để lời nói của bạn chuyên chở tình yêu thương và niềm vui đến cho mọi người!
Văn Mẫu Lớp 6: Kể Về Người Bố (Cha) Của Em 2 Dàn Ý &Amp; 17 Bài Văn Lớp 6
Kể về người bố của em
Tài liệu bao gồm dàn ý và 17 bài văn mẫu hay nhất, dành cho học sinh lớp 6. Nội dung chi tiết chúng tôi sẽ giới thiệu đến các bạn học sinh ngau sau đây.
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát: Bố chính là người trụ cột trong gia đình, là người thầy đầu tiên cho em những bài học về lẽ sống. Em rất yêu quý và kính trọng người.
2. Thân bài
Miêu tả đôi nét về ngoại hình: Bố em có thân hình vạm vỡ, làn da nâu rám nắng khỏe khoắn, đôi mắt màu nâu dài và sâu luôn trìu mến với chúng em..
Kể về tính cách: Bố là một người cha hiền lành, tốt bụng, luôn gánh vác những trọng trách lớn lao trong nhà…
Kể một vài kỉ niệm về bố: khi em còn nhỏ, khi đã lớn hơn, và nêu cảm xúc về những kỉ niệm gắn liền với bố.
3. Kết bài
Nêu tình cảm yêu quý, kính trọng em dành cho bố như thế nào.
Không giống với người mẹ, người bố có cách thể hiện tình cảm riêng. Dù vậy, thì tình yêu thương của bố cũng rất vĩ đại. Và đối với em, bố là người thân mà em cảm thấy kính trọng và yêu mến nhất.
Năm nay, bố của em bốn mươi lăm tuổi. Dáng người cao nhưng hơi gầy. Khuôn mặt vuông chữ điền, mái tóc cắt ngắn đã điểm vài sợi bạc. Làn da ngăm đen vì những tháng ngày vất vả làm việc. Đôi mắt của bố sáng như những vì sao trên bầu trời đêm vậy. Nhưng em thích nhất là đôi bàn tay to lớn, chai sần nhưng tràn đầy ấm áp.
Em cảm thấy bố là một người cha khá nghiêm khắc và khó tính. Dù vậy, bố cũng vẫn rất tâm lí. Thỉnh thoảng, em lại kể cho bố nghe những việc xảy ra ở lớp. Khi đó, bố sẽ cho em những lời khuyên hữu ích. Bố cũng là người dạy dỗ anh trai và em những điều hay lẽ phải.
Hiện nay, bố đang là bác sĩ của một bệnh viện trong thành phố. Công việc hàng ngày của bố rất bận rộn. Nhưng mỗi khi có thời gian rảnh ở nhà, bố đều đưa em và anh trai đi chơi, dạy chúng em học bài. Bố cũng hay giúp đỡ mẹ những công việc trong gia đình. Đặc biệt, bố nấu ăn rất ngon. Món tủ của bố là sườn xào chua ngọt. Đây cũng là món ăn mà em cảm thấy yêu thích nhất.
Em còn nhớ một kỉ niệm về bố. Hồi còn nhỏ, em rất nghịch ngợm. Dù là con gái nhưng em vẫn theo các bạn nam trong xóm đi chơi. Một lần, chúng em đi ăn trộm ổi nhưng bị bác Nhung – chủ nhà phát hiện. Bác đã kể đến nhà của từng đứa để nói chuyện với bố mẹ. Lúc đó, em còn nhớ bố đã không đánh mắng. Bố đã kể cho em nghe câu chuyện của bố khi còn nhỏ. Hồi đó, bố cùng là một đứa trẻ nghịch ngợm. Bố đã từng trốn học đi chơi và bị ông nội phát hiện. Nhưng ông nội đã không tức giận mà chỉ nhẹ nhàng khuyên bảo, ông đã giúp bố nhận ra lỗi lầm và thay đổi. Kể xong câu chuyện, bố đã nói với em rằng ai cũng đều mắc sai lầm, nhưng quan trọng là phải nhận ra lỗi sai và sửa sai. Câu chuyện của bố đã giúp em nhận ra bài học quý giá.
“Công cha như núi Thái Sơn” – câu ca dao cho thấy công ơn to lớn của người cha mà chúng ta chẳng thể nào đong đếm được. Vì vậy, mỗi người hãy biết yêu thương và kính trọng bố của mình.
Gia đình em có bốn người: mẹ em, bố em, anh hai và em. Mẹ em lúc nào cũng dễ dãi, nuông chiều con cái, còn bố em thì ngược lại, rất nghiêm túc. Thế nhưng em vẫn kính yêu bố em vô cùng.
Nhìn bố, ít ai nghĩ rằng ba đang ở vào độ tuổi bốn mươi lăm. Vì tóc bố vẫn còn đen, chỉ có lơ thơ vài sợi tóc trắng. Người bố hơi cao, không mập lắm, nên có vẻ khỏe khoắn. Sở dĩ được như vậy là do bố em năng tập thể dục vào mỗi buổi sáng. Nghe bà nội em kể rằng, thuở nhỏ bố em rất thích chơi thể thao; bóng chuyền, bóng bàn môn nào bố cũng giỏi. Gương mặt bố hao hao hình chữ điền, trông đầy nét cương nghị.
Hàng ngày, sau giờ làm việc ở cơ quan về, bố em còn cuốc đất vun gốc cho mấy cây trồng xung quanh nhà. Cho nên, tuy vườn không phải là rộng lắm nhưng có nhiều thứ hoa quả. Cây nào cây nấy thẳng lối ngay hàng, đẹp chẳng khác chi một công viên nho nhỏ.
Nhiều đêm, bố em thường thức tới khuya để làm thêm một số công việc tăng thu nhập cho gia đình. Em biết rõ điều đó lắm. Vì chúng em mà bố em phải chịu nhiều vất vả. Nhưng bố nào có quản khó nhọc gì đâu. Bố thường nói với mẹ em rằng, dù cực khổ mấy cũng chịu được, miễn là nhìn thấy chúng em ngoan ngoãn, siêng năng học hành là ba đã vui rồi. Bây giờ em mới hiểu câu “Công cha như núi Thái Sơn” thật là cao cả biết dường nào.
Những lúc rảnh rỗi, bố em thường dắt chúng em đi dạo quanh làng. Vừa đi, bố vừa kể chuyện hay giảng giải những điều thắc mắc chúng em thường gặp. À, mà sao cái gì bố cũng biết, biết nhiều thứ lắm. Anh Hai và em cứ nhờ bố giảng cho bài văn, hướng dẫn cho bài toán. Bố đúng là ông thầy thứ hai, ở nhà.
Em rất kính yêu bố em. Nhờ có bố mà cả gia đình sống trong cảnh ấm no, hạnh phúc. Cho nên, lúc nào, em cũng cố gắng học thật giỏi để ba em được vui lòng.
Tôi đang ngồi học, đêm đã buông xuống tĩnh mịch từ lâu, chợt nghe đâu đây tiếng gió thổi lao xao lùa vào gian phòng khe khẽ. Chợt, nhìn sang chiếc hộp gỗ trên bàn học, đó là hộp đựng bộ que tính bố đã tự tay làm cho tôi. Trong lòng tôi bỗng dưng dưng một niềm cảm xúc yêu thương bố lạ kỳ, mãnh liệt hơn bao giờ hết.
Bố tôi năm nay đã ngoài bốn mươi tuổi, mái tóc cũng đã điểm bạc. Nước da ngăm đen, rám nắng, và có chút chai sạn. Mỗi lần nhìn vào gương mặt ấy, khóe mắt tôi lại thấy cay cay, những tháng năm lăn lộn, không quản nắng mưa đã bôn ba trên mọi nẻo đường chở hàng nuôi tôi khôn lớn. Có những lúc, nhìn người ta đi ngoài đường, quần là áo lượt xe ô tô hạng sang tôi lại xót xa nhớ về người cha ấy của tôi. Lẽ ra giờ này bố cũng có thể như thế, nhưng vì tôi, vì đàn con thân yêu, bố đã hi sinh cả thanh xuân và sức lực của mình để gắng sức nuôi chúng tôi nên người. Tôi tự nhủ mình sẽ phải học thật tốt để không phụ lòng mong mỏi của bố. Những cánh tay to, chắc khỏe, gân guốc đã lo toan, chèo chống cho gia đình này không biết bao phen sóng gió. Tôi cũng không dám tưởng tượng nếu không có bố, cuộc đời chị em tôi sẽ đi về đâu.
Bố tôi là người rất hiền lành và tốt bụng. Nhưng điều ấy không đồng nghĩa với việc bố để chị em tôi được dễ dãi. Ông rất yêu các con của mình. Có gì ngon bố cũng để giành phần chúng tôi, vậy mà những đứa trẻ non nớt không hiểu chuyện như chúng tôi lại chưa làm được điều ấy. Công việc bên ngoại, bên nội, của hàng xóm láng giềng có ai nhờ đến bố đều giúp đỡ rất nhiệt tình. Có lẽ chính vì vậy mà bố được rất nhiều người quý mến, kính trọng, tin tưởng. Bố hay kể cho tôi nghe về tổ tiên tôi ngày trước, nhắc tôi phải biết uống nước nhớ nguồn. Những bài học nhân sinh, bài học về cách làm người của bố đã lớn dần lên cùng tháng năm, cho tôi những hiểu biết sâu sắc hơn về truyền thống, cội nguồn dân tộc.
Bố là cả một khoảng trời để chú chim non bé nhỏ là tôi được thỏa sức vẫy vùng. Thuở ấu thơ, tôi hay cùng bố ra bờ sông câu cá, bố dạy tôi tập bơi, dạy tôi cách thả diều, cách làm những chiếc đèn kéo quân vui tết trung thu. Tuổi thơ hồn nhiên, trong sáng ấy của tôi đã được làm hồng lên bởi tình yêu thương, sự chỉ bảo ân cần của bố. Thỉnh thoảng, nhìn chiếc áo phai màu, sờn vai bố đang mặc tôi lại ùa về kỉ niệm những đêm đông bố đã chịu lạnh để tôi được cuộn tròn trong chiếc chăn bông ấm áp và ra ngoài làm việc. Bố đã hi sinh cho tôi nhiều lắm, tuổi thanh xuân, sức lực và cả tình yêu bao la vô bờ ấy, bố dồn cả vào trái tim non nớt của tôi, che chở, ủ ấm nó để nó không bao giờ chịu những vết trầy xước gì. Tôi cảm thấy mình thật sự là một đứa trẻ may mắn vì được lớn lên trong tình phụ tử thiêng liêng, cao đẹp như vậy.
Có thể thời gian trôi đi, tôi rồi cũng sẽ trưởng thành lên, và ai ai cũng vậy. Nhưng những bài học sâu sắc, những kỉ niệm, và tình cảm bao la mà bố dành cho tôi sẽ là hành trang nâng bước tôi trong suốt chặng đường dài bây giờ và mãi cả sau này nữa.
Điều may mắn và hạnh phúc nhất trong cuộc đời mỗi chúng ta là được sống trong vòng tay yêu thương của bố. Bố luôn là người che chở, bảo vệ cho ta trong suốt cuộc đời. Càng lớn lên và thấu hiểu những cay đắng, nhọc nhằn, tôi càng cảm thấy biết ơn vì những hy sinh lớn lao mà bố đã dành cho mình.
Bố tôi năm nay đã ngoài bốn mươi tuổi. Dáng người bố cao gầy. Trong mắt tôi, dáng hình ấy lúc nào cũng thật to lớn và vững chãi để che chở cho cả gia đình. Làn da bố rám nắng vì phơi nắng dầm sương, trải qua đủ khó khăn, khổ cực vì cuộc mưu sinh vất vả. Khuôn mặt bố vuông chữ điền, toát lên vẻ hiền lành và nhân hậu. Đôi mắt bố đen láy, trong đôi mắt ấy chứa đựng cả bầu trời yêu thương bố dành cho các con. Mỗi khi mỉm cười, đôi mắt bố thật đỗi dịu dàng, thể hiện sự trìu mền pha chút nuông chiều. Mái tóc bố không còn đen nữa mà đã lấm tấm bạc. Nhìn những sợi tóc bạc ấy, tôi càng thương bố nhiều hơn vì những gian lao, vất vả bố phải trải qua để nuôi chúng tôi khôn lớn. Tôi thích nhất là những lúc bố cười. Nụ cười ấy mới ấm áp làm sao. Những lúc như thế, tôi tự nhủ phải chăm ngoan hơn nữa để nụ cười ấy có thể xuất hiện nhiều hơn trên đôi môi của bố. Đôi bàn tay bố chai sần, thô ráp nhưng tôi vẫn luôn yêu đôi bàn tay ấy. Đôi bàn tay khó nhọc vì gia đình. Đôi bàn tay hi sinh vì sự bình yên, hạnh phúc của các con.
Trong kí ức tuổi thơ của tôi luôn đong đầy những kỉ niệm về bố. Ngày mới biết đi, bố dắt tay tôi đi trên con đường làng quen thuộc. Cái bóng liêu xiêu trải dài trên mặt đường trùm lên cái bóng bé nhỏ của tôi. Mỗi khi tôi vấp ngã, bố dịu dàng đỡ tôi dậy, đôi bàn tay nhẹ nhàng vuốt lên mái tóc khi tôi bật khóc. Bố là người kiệm lời, ít nói nhưng tôi biết tình yêu thương bố dành cho các con lúc nào cũng dạt dào và chan chứa. Bố cùng tôi đến trường trong ngày đầu đi học, dạy tôi làm những phép tính đầu tiên. Những đêm thức khuya học bài, lúc nào bố cũng chờ tôi đi ngủ rồi mới an giấc. Bố luôn yêu thương và chiều chuộng tôi nhưng vẫn nghiêm khắc chỉ bảo mỗi khi tôi mắc lỗi. Bố dạy tôi cách sống, cách làm người, hiểu được những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống, ý nghĩa của sự trung thực, ngay thẳng, lòng khoan dung và biết ơn. Cả cuộc đời bố đã vất vả hy sinh vì gia đình, thế nhưng, vẫn có lúc tôi vô tình làm bố buồn, chẳng thể đáp ứng được sự kỳ vọng và tin tưởng của bố.
Sau này lớn lên, rồi tôi sẽ phải rời xa vòng tay của bố nhưng tôi tin rằng bố sẽ mãi là người che chở, dõi theo và bảo vệ cho tôi trong suốt cuộc đời. Những bài học của bố sẽ là hành trang theo tôi suốt cuộc đời, tình yêu của bố sẽ là động lực để tôi tiến lên phía trước.
Gia đình em là một tổ ấm gồm bốn thành viên: bố mẹ, anh trai em và em. Em yêu quý tất cả mọi người nhưng bố là người em kính trọng và yêu quý nhất bởi từ bé bố đã là người chăm sóc, gần gũi và yêu thương em vô ngần. Đặc biệt hơn cả thì bố chính là bức tường thành vững chãi để em trở về sau mỗi lần vấp ngã.
Bố em tên là Nguyễn Đình Phong năm nay bốn mươi tuổi. Thân hình bố to, cao vạm vỡ. Một phần là bởi bố là bộ đội được rèn luyện trong môi trường quân ngũ nên rất khỏe và cường tráng. Làn da ngăm đen vì những buổi luyện tập trên thao trường hàng giờ đồng hồ. Em yêu nhất là đôi mắt bố. Dưới hàng lông mày rậm là đôi mắt to, luôn ánh lên sự yêu thương và quan tâm đến mọi người. Nhìn vào ánh mắt ấy em cảm nhận được cả một bầu trời yêu thương. Mỗi khi mắc lỗi, ánh mắt ấy lại ánh lên sự nghiêm nghị khiến em phải tự nhìn nhận lại bản thân để rút kinh nghiệm và không phạm phải sai lầm nữa. Nhưng những khi em vấp ngã, thất bại khi đã cố gắng hết sức thì bố cũng không hề trách móc, ánh mắt lại toát lên sự bao dung, động viên và an ủi để em vững bước. Trán của bố em cao vuông. Chính vầng trán ấy đã bao đêm thao thức, suy tư để tìm ra những hướng giải quyết hay cho gia đình. Theo năm tháng thì mái tóc bố đã dần pha sương. Bão tố cuộc đời đã in hằn trên mái đầu với những mái tóc điểm bạc và những nếp nhăn trên khuôn mặt vuông chữ điền.
Vào thời gian rảnh rỗi bố em rất thích đọc báo và xem thời sự. Vì vậy mà bố có vốn hiểu biết uyên thâm về mọi lĩnh vực của đời sống từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, giáo dục. Vì vậy mà từ khi biết nhận thức và tiếp thu, bố đã dạy em nhiều điều hay lẽ phải, cách đối nhân xử thế với mọi người để rồi em khôn lớn hơn mỗi ngày. Giọng của bố lúc dạy dỗ các con rất trầm ấm, dứt khoát mà đầy yêu thương, trìu mến.
Ở cơ quan, bố là người rất mẫu mực và nghiêm túc. Bởi vậy mà mọi người trong cơ quan đều yêu quý và kính nể bố. Khi làm việc nghiêm túc là vậy nhưng vào những giờ giải lao bố lại rất vui vẻ và trẻ trung. Cầm cây đàn ghi ta trên tay, bố cùng các đồng nghiệp hát vang bài ca: “Đời lính có khi thật nhớ nhà, nhờ gió đem lời yêu thương, gửi tới nơi quê nhà, nơi có những vì sao đợi mong…”. Giọng hát của bố nghe rất hay, lúc trầm, lúc bổng khi lại du dương.
Bố là người rất khéo tay. Mọi đồ đạc trong nhà hầu hết là do bố tự tay làm từ chiếc bàn học, cái kệ sách đến cái nôi ngày nhỏ em nằm. Nhờ bàn tay của bố mà mọi đồ đạc trong nhà đều rất đẹp đẽ. Tối tối thì bố lại dạy em học bài. Tính bố em rất ân cần, chu đáo, khi thì hiền lành nhưng cũng có lúc rất cương quyết, nghiêm nghị.
Nếu mẹ là người ân cần chu đáo tần tảo sớm hôm lo cho gia đình thì bố lại chính người đàn ông đầy nghị lực, gánh vác mọi công việc lớn nhỏ trong nhà. Cha như cây đại thụ che chở mọi người khỏi những giông tố. Bố đã vất vả nhiều vì cuộc sống này. Em luôn tự nhủ với lòng mình sẽ học thật giỏi để không phụ lòng cha mẹ.
Trong gia đình tôi, bố tôi là người yêu thương tôi nhất. Bố luôn luôn lắng nghe mọi người nói và đặc biệt là tôi.
Bố có một thân hình to, cao, khoẻ mạnh. Bố rất khoẻ và luôn giúp đỡ mọi người trong gia đình. Bố có một đôi tay nổi cơ bắp, bàn tay bố có nhiều vết chai cứng như đá vì phải làm việc nhiều. Mặt bố tròn, mũi cao, mồm rộng, để râu và bố có đôi mắt màu nâu tuyệt đẹp.
Bố tôi, một người trụ cột trong gia đình. Đối với tôi, bố cho việc lớn thành việc nhỏ, việc nhỏ thì cho qua. Bố tôi là một tấm gương sáng cho gia đình. Tôi đã từng nghe câu tục ngữ “Con không cha như nhà không có nóc” và đúng là như vậy. Bố tôi như người cha trong câu tục ngữ ấy, là một con người mẫu mực, một trụ cột không thể thiếu trong gia đình tôi. Là một người siêng năng, kiên trì, thông minh khác hẳn những người khác và đã có ý định làm gì thì phải làm cho bằng được nên bố tôi được rất nhiều người kính trọng.
Tôi rất tự hào khi là con trai của bố, con sẽ luôn ghi nhớ những điều bố dạy bảo và sẽ cố gắng học thật giỏi để không phụ công ơn của bố.
Tục ngữ có câu: “Con có cha như nhà có nóc”. Câu nói đó cho thấy vị trí và vai trò quan trọng của người cha trong gia đình. Đối với em, hình ảnh của bố luôn in đậm trong tâm trí.
Năm đó, bố em đã ngoài bốn mươi tuổi. Bố là một chiến sĩ công an. Điều đó khiến em rất tự hào và hãnh diện. Bố thường phải đi trực và làm nhiệm vụ. Bố có khuôn mặt chữ điền, ánh mắt nghiêm nghị. Những hôm trời nóng, bố đi làm về, gương mặt đỏ ứng lên, mồ hôi lấm tấm trên mặt và ướt cả một mảng lưng áo. Em hiểu rằng bố phải đứng gác dưới nắng gắt nên càng thương bố hơn. Nước da bố rám nắng, khỏe mạnh. Những buổi tối không phải đi làm, bố lại ngồi suy tư với những tài liệu của cơ quan. Lúc ấy, gương mặt bố đăm chiêu suy nghĩ, đôi mắt sáng ngời, đôi chân mày rậm rạp cứ nheo lại. Mái tóc bố đã lấm tấm những sợi bạc. Em biết rằng bố phải lo công việc ở cơ quan vốn gian nan và khó khăn, đặc biệt là hết sức nguy hiểm nhưng lúc nào bố cũng cố gắng hoàn thành công việc một cách tốt nhất. Mỗi khi đi làm, bố thường mặc quân phục và đội chiếc mũ công an trông rất oai nghiêm. Những lúc đêm khuya, có điện thoại gọi tới, vì nhiệm vụ là bố lại choàng dậy và vội vã lên đường bất kể thời tiết ra sao.
Bố em không chỉ là người chiến sĩ dũng cảm ở cơ quan mà còn là người giữ bình yên cho khu phố và cũng là người trụ cột trong gia đình. Tuy bận bịu ở cơ quan nhưng bố vẫn không quên chăm lo những công việc trong gia đình và hết lòng yêu thương con cái. Bố luôn kiểm tra, kèm cặp việc học hành của chị em em. Bố cũng rất nghiêm khắc trong việc dạy dỗ con cái. Tuy nhiên, nhiều lúc, bố lại rất vui tính và hài hước. Thỉnh thoảng, bố lại kể chuyện cười cho hai chị em nghe khiến chúng em phá lên cười như nắc nẻ. Đối với bà con hàng xóm, có việc gì là bố luôn sẵn lòng giúp đỡ. Mọi người đều kính nể và yêu quý bố.
Em rất yêu qúy bố và rất tự hào vì bố là người chiến sĩ công an vì nước quên thân, vì dân phục vụ. Bố là điểm tựa vững chắc cho gia đình em, giống như câu hát:”Ba sẽ là cánh chim, cho con bay thật xa”.
Tôi yêu quý tất cả những người ruột thịt nhưng gần gũi, gắn bó hơn cả vẫn là cha. Cha không chỉ sinh thành, nuôi dưỡng mà còn là người bạn lớn thân thiết của tôi. Không thể kể hết những kỉ niệm của thời thơ ấu, nhưng riêng kỉ niệm về tình cha con thì mỗi lần nhớ lại, tôi đều rưng rưng xúc động.
Hồi lên bốn, lên năm, tôi theo cha nhiều hơn theo mẹ. Bởi lẽ mẹ đi làm xa, sáu giờ đã rời nhà và tối mịt mới về, không thể chăm sóc tôi hằng ngày được, ông bà nội già yếu, cha tôi không dám phiền, nên hầu như mọi việc lớn nhỏ trong nhà, cha đều làm cả.
Những sáng mùa đông, gió bấc xào xạc ngoài vườn cây và lùa hun hút qua khe cửa, cha tôi dậy sớm đun nước rót vào phích rồi đặt thêm ấm nữa để ông bà nội có nước nóng rửa mặt. Bên tách trà nóng thơm ngát, ông nội và cha tôi trò chuyện. Tôi ngồi lọt thỏm trong lòng, áp mặt vào khuôn ngực vạm vỡ, ấm sực của cha mà cảm thấy sung sướng vô ngần. Ngoài đường có tiếng rao lanh lảnh: “Bánh mì nóng giòn đây! Bánh mì mới ra lò đây!”. Cha chạy ù ra mua cho tôi một chiếc. Tôi bẻ từng miếng nhỏ, nhai rau ráu ngon lành.
Những chiều hè, mặt trời vừa lặn sau dãy núi Ba Vì tím biếc, cha nhấc tôi lên vai, hai cha con đi dọc triền đê hứng gió, rồi xem đám trẻ thả diều. Sau đó cha cho tôi xuống bến sông tắm. Tôi thích thú ngâm mình trong dòng nước phù sa mát rượi và thỏa thuê quẫy đạp trên đôi tay rắn chắc của cha. Nhờ cha dạy mà tôi biết bơi rất sớm.
Trong nhà, chỗ nào cũng có đồ chơi cha làm cho tôi. Trên bệ cửa sổ là chú bé cưỡi trâu thổi sáo, là mẹ con đàn lợn quây quần bên nhau, dễ thương lạ lùng! Rồi khay quả gồm bưởi, cam, na, ổi, chuối được tô màu y như thật… Tất cả đều do bàn tay khéo léo của cha nặn từ đất sét móc ở bờ sông. Những con cào cào, châu chấu, chuồn chuồn, bươm bướm tết bằng lá dừa theo tôi vào trong giấc ngủ say nồng. Tôi cảm nhận tình yêu nồng nàn của cha dành cho đứa con trai bé bỏng từ những thứ đồ chơi ấy.
Nhớ nhất là hồi tôi học lớp một. Buổi khai trường đầu tiên trong đời, tôi được cha chở đi học trên chiếc xe đạp cũ kỹ đã tróc hết sơn. Ngồi đằng sau, tôi ríu rít hỏi cha đủ chuyện:
Tôi rất yêu người cha của mình. Tôi sẽ cố gắng chăm ngoan để cha luôn cảm thấy tự hào về mình.
Dù bạn ở đâu, dù rằng làm gì thì bạn vẫn luôn phải hướng về cha mẹ. Tình phụ tử luôn là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý đối với mỗi con người, là chiếc la bàn định hướng cho ta trên chặng đường dài. Em cũng có một người bố đáng trân trọng, đáng kính như thế.
Bố em năm nay đã ngoài bốn mươi tuổi, dáng người bố cao gầy nhưng trong mắt em bố lúc nào cũng hiện lên là một người khỏe mạnh và là trụ cột vững chắc trong gia đình. Bố em có nước da bánh mật có lẽ bố phải làm lụng vất vả nhiều, lo toan mọi công việc lớn trong gia đình. Khuôn mặt bố vuông chữ điền cùng với đôi lông mày rậm toát lên vẻ đôn hậu. Đôi mắt đen láy, sâu thẳm chứa đựng cả bầu trời yêu thương dành cho con. Đôi mắt ấy cũng luôn toát lên niềm vui khi em đạt kết quả tốt và cũng chứa đựng nỗi lo âu khi em bị điểm kém hay không hoàn thành nhiệm vụ. Chính đôi mắt ấy cũng như động lực giúp em đứng dậy sau mỗi lần vấp ngã. Mái tóc bố không còn đen như trước nữa mà đã có những sợi tóc bạc đã bị năm tháng nhuốm màu vất vả. Em thích nhất là lúc bố cười. Những lúc bố cười em cảm thấy rất ấm áp và vô cùng thân thương, trìu mến. Nụ cười cũng như thắp lên cho em niềm tin, những ước mơ cháy bỏng. Những lúc ấy em chỉ mong sao sẽ học tập thật tốt để nụ cười luôn hiện lên trên gương mặt của bố. Đôi bàn tay bố chai sạn, thô ráp vì phải làm lụng khó nhọc vì gia đình.
Trong kí ức tuổi thơ của em có biết bao nhiêu kỉ niệm gắn bó với cha. Bố em rất hiền nhưng cũng rất nghiêm khắc trong công việc và trong việc dạy dỗ con cái. Nếu như mẹ dạy con sự hiền lành, dịu dàng nữ tính thì bố lại dạy cho em sự quyết đoán trong khi giải quyết những công việc lớn. Vào mỗi buổi tối bố thường dạy em học bài, có bài nào không hiểu bố giảng giải, phân tích cặn kẽ từng li từng ti để em hiểu vấn đề một cách thấu đáo hơn. Dù bận đến mấy nhưng bố cũng luôn dành thời gian nhắc nhở em học tập và dạy em cách chơi thể thao để luyện tập thể dục. Em nhớ có lần mẹ em bị ốm nên bố phải lo toan mọi công việc trong gia đình từ việc lớn đến việc vỏ. Bố nấu cháo cho mẹ ăn rồi dậy sớm nấu cơm cho hai chị em em ăn đi học và đưa em đến trường. Bố lo lắng cho mẹ đến nỗi hốc hác cả gương mặt, đôi mắt bố trở nên nặng nề nhưng vẫn ánh lên niềm tin yêu trong cuộc sống. Ngoài ra, bố rất nhiệt tình giúp đỡ mọi người, có việc gì giúp được thì bố giúp luôn chứ không ngần ngại chần chừ điều gì cả. Bố em thường dạy em là phải biết “ bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Bởi thế nên mọi người trong xóm ai cũng trân trọng và ngưỡng mộ bố rất nhiều. Bố là một người giàu đức hi sinh, vẫn luôn dành cho gia đình những điều tốt đẹp nhất vì vậy mà công lao của bố không thể kể được:
Bố luôn là người đàn ông đáng quý nhất của cuộc đời em. Bố như ngọn hải đăng soi đường chỉ lối để em không hề bị mất phương hướng trên cuộc đời dài và rộng. Bố chính là một tấm gương sáng để cho chúng em học tập và noi theo. Mai này dù có phải xa vòng tay yêu thương của bố thì em cũng chỉ muốn thốt lên câu nói từ tận đáy lòng là: “ Con yêu bố nhiều lắm, bố ơi”.
Mẹ em lúc nào cũng dễ dãi nuông chiều còn ba em là người nghiêm khắc và cứng rắn. Nhưng không vì điều đó mà tình cảm em dành cho ba ít hơn mẹ.
Nhìn ba ít ai nghĩ ba đang ở độ tuổi năm mươi vì đầu ba hầu như không có một sợi tóc bạc nào, ba nói được vậy là do hồi nhỏ uống nước trà xanh nhiều. Người ba hơi cao không mập lắm nhưng có nét khỏe khoắn mạnh mẽ nhờ siêng tập thể dục thể thao vào mỗi buổi sáng. Nghe bà nội kể hồi nhỏ ba em chơi bóng bàn và cầu lông rất giỏi.Gương mặt ba em hình chữ điền tỏ vẻ phúc hậu và cắt mái tóc ngắn khá mô đen để lộ vầng trán cao thể hiện trí thông minh.Đôi lông mày hình lá lĩu và cặp mắt đen lấy luôn tỏ ra cái nhìn trìu mến với mọi người.Cái miệng hay cười để lộ hàm răng trắng và đều như trái bắp.
Hằng ngày sau giờ làm ở cơ quan ba em hay thức tới khuya làm sổ sách kiếm thêm thu nhập, em biết rất rõ điều đó vì ba yêu thương gia đình mà.Ba thường nói với em chỉ cần con học giỏi chăm ngoan thì ba vui rồi, sau khi nghe ba nói em quyết tâm học thật giỏi để ba vui. Bây giờ em đã hiểu câu công cha như núi thái sơn cao cả như thế nào.
Những lúc rảnh rỗi ba thường chở em đi chơi, đi ăn kem. Ba thương em lắm, có gì khó hỏi ba thì ba sẽ trả lời, em cũng nhờ ba mà học giỏi toán đó. Ba đúng là người thầy thứ hai của em.
Em rất kính yêu ba nhờ có ba mà gia đình em ấm no hạnh phúc cho nên lúc nào em cũng cố gắng làm theo lời ba dặn: học giỏi chăm ngoan, siêng năng chăm chỉ, cần cù liêm chính, có ngày thành danh.
Cây vĩ cầm đã câm lặng từ lâu, con còn nhớ khi chai sạn chiều hôn lên tay cha. Cây vĩ cầm vẫn ngân nga hằng đêm, bay mãi vào một thời ấu thơ là cây vĩ cầm. Trải bao giông bão, bao tháng năm kiếp người vẫn còn với cha cây vĩ cầm”…
Lời bài hát vang lên da diết làm em chợt nhớ về hình bóng yêu thương của bố – người cha muôn vàn kính yêu, người nghệ sĩ trong gia đình em.
Thấy bóng bố ngồi yên tĩnh bên cây vĩ cầm, câu chuyện về những ngày còn trẻ của bố mà mẹ hay kể lại ùa về. Hơn hai mươi năm trước, bố còn là chàng thanh niên hai mươi tuổi, nhiều ước mơ và hoài bão. Bố từ nhỏ đã kế thừa tình yêu âm nhạc từ bà nội, đặc biệt đam mê với loại hình nghệ thuật này.
Khi em ra đời thì bà nội đã mất, mẹ bảo bà hát dân ca hay lắm, bà còn biết kéo đàn nhị nữa. Nhưng bố không thích đàn nhị như bà nội, lúc bố 13 tuổi, hay sang nhà người hàng xóm từ bên nước ngoài về Việt Nam định cư, nghe người ta kéo đàn vĩ cầm – loại nhạc cụ hiếm có ở Việt Nam rồi theo người ta học kéo đàn.
Nhiều năm sau đổi mới, người hàng xóm kia quay lại quê hương họ tặng cho bố một cây vĩ cầm màu nâu nho nhỏ. Cứ như vậy, cây vĩ cầm ấy theo bố đến hôm nay đã qua hơn hai mươi năm.
Sau này, bố gặp mẹ, bố là chàng trai Hà thành hào hoa, mẹ lại thiếu nữ Sài Gòn sôi nổi, cảm mến chàng thanh niên chơi vĩ cầm giỏi, ít lâu sau thì về chung một nhà. Mẹ bảo sau khi lập gia đình, bố không chơi vĩ cầm thường xuyên như trước nữa, chỉ chăm chú làm ăn lo cho vợ con. Mãi đến khi em lên lớp 2, thấy bố đem cây vĩ cầm đã cũ ra lau chùi, tò mò hỏi mẹ mới biết.
Em cứ nghĩ chắc mình sẽ không được nghe bố đàn vĩ cầm. Cho đến năm ngoái, anh trai đi xa về tặng cho bố một cây vĩ cầm màu nâu bóng, được thiết kế tỉ mỉ, đặt trong hộp gỗ. Em vẫn nhớ như in hình ảnh bố khi ấy, khuôn mặt vuông chữ điền chất phác của người đàn ông đã ngoài bốn mươi với nước da hơi ngăm bỗng bừng sáng hẳn lên.
Đôi mắt hiền từ thường ngày nheo nheo lại, vết nhăn mờ mờ nơi khóe mắt sau nhiều năm gánh vác gia đình thấp thoáng hiện lên. Bố nở nụ cười tươi, đôi tay gầy gầy khẽ vuốt ve cây đàn rồi nhẹ nhàng đặt nó lên, kẹp giữa bờ vai rộng và cần cổ.
Advertisement
Bàn tay bố từ từ đưa qua, kéo nhẹ dây đàn, bản nhạc du dương không biết tên vang lên, dù không được điêu luyện như những nghệ sĩ trên truyền hình nhưng nghe vô cùng ấm áp, xúc động. Hóa ra bố cũng là người nghệ sĩ tài giỏi như vậy.
Kéo đàn xong, bố nâng niu cây vĩ cầm, cẩn thận bỏ lại nó vào hộp rồi đem cất đi. Bóng dáng cao gầy, bước chân vững chắc, bình ổn thường ngày nhanh nhẹn hẳn lên. Sau đó, em cũng không được nghe bố kéo đàn vĩ cầm thêm lần nào nữa.
Bố trở về với cuộc sống thường ngày, vừa lo làm ăn nhỏ, vừa phụ giúp mẹ chăm lo gia đình. Bố là thần tượng của em từ ngày còn bé, luôn ân cần, dịu dàng, thậm chí nhiều món ăn bố nấu còn ngon hơn cả mẹ. Bố không bao giờ khắt khe trong việc học hành của em, thỉnh thoảng sẽ quan tâm con gái học hành có vất vả không, giúp em giảng giải nhiều bài tập khó. Nhiều lần, trời mưa gió mà vẫn phải đến trường, bố đều bỏ công việc, đưa đón em mới yên tâm.
Bố em vốn là người ít nói nhưng rất chu đáo, quan tâm đến mọi người. Những ngày đặc biệt như 20 tháng 10, mùng 8 tháng 3, mẹ và em đều sẽ có quà, hai mẹ con lần nào cũng cảm động. Hàng xóm ai cũng yêu mến bố, đặc biệt là các cụ già, lúc nào cũng khen bố còn trẻ mà kiên nhẫn ngồi chơi cờ, tán gẫu với các cụ, các cụ bớt cô đơn hẳn.
Mỗi lần như vậy, em đều tự hào vô cùng. Bố chính là người mà em ngưỡng mộ nhất. Bố không chỉ là chỗ dựa vững chắc cho gia đình em mà còn là người luôn nhẹ nhàng dạy cho em nhiều bài học đạo lý làm người, sống đúng đắn và nhân hậu. Em luôn cảm thấy mình may mắn rất nhiều khi được trưởng thành trong sự bảo vệ yêu thương của bố mẹ.
Đối với em gia đình vô cùng thiêng liêng. Bởi ở đó có những người thân mà em luôn yêu quý. Nhưng người mà em yêu quý nhất chính là bố của mình.
Năm nay bố em bốn mươi hai tuổi. Bố cao khoảng 1m80. Làn da ngăm đen vì những buổi luyện tập trên thao trường hàng giờ đồng hồ. Em yêu nhất là đôi mắt bố. Dưới hàng lông mày rậm là đôi mắt to, luôn ánh lên sự yêu thương và quan tâm đến mọi người. Nhìn vào ánh mắt ấy em cảm nhận được cả một bầu trời yêu thương. Mỗi khi mắc lỗi, ánh mắt ấy lại ánh lên sự nghiêm nghị khiến em phải tự nhìn nhận lại bản thân để rút kinh nghiệm và không phạm phải sai lầm nữa. Nhưng những khi em vấp ngã, thất bại khi đã cố gắng hết sức thì bố cũng không hề trách móc, ánh mắt lại toát lên sự bao dung, động viên và an ủi để em vững bước. Trán của bố em cao vuông. Chính vầng trán ấy đã bao đêm thao thức, suy tư để tìm ra những hướng giải quyết hay cho gia đình. Theo năm tháng thì mái tóc bố đã dần pha sương. Bão tố cuộc đời đã in hằn trên mái đầu với những mái tóc điểm bạc và những nếp nhăn trên khuôn mặt vuông chữ điền.
Sau giờ làm việc ở cơ quan về, bố em còn thích chăm sóc cây cối. Nhờ có sự chăm sóc tận tình của bố, mà cây cối trong vườn đều xanh tốt. Bố còn rất hay thức tới khuya để làm thêm một số công việc tăng thu nhập cho gia đình. Em hiểu bố phải vất vả vì chúng em lắm. Nhưng bố chẳng quản khó khăn để cả gia đình có một cuộc sống tốt hơn. Bố thường nói với mẹ em rằng, dù cực khổ mấy cũng chịu được, miễn là nhìn thấy chúng em ngoan ngoãn, siêng năng học hành là ba đã vui rồi. Bây giờ em đã hiểu được câu nói: “Công cha như núi Thái Sơn” có ý nghĩa như thế nào.
Có những lúc rảnh, bố em thường đưa chúng em đi chơi, dạy chúng em học bài. Thỉnh thoảng bố còn kể chuyện cho chúng em nghe nữa. Nhờ có những lời khuyên của bố mà hai chị em đã có thêm nhiều bài học hơn. Nếu như mẹ là người ân cần chu đáo tần tảo sớm hôm lo cho gia đình thì bố lại chính người đàn ông đầy nghị lực, gánh vác mọi công việc lớn nhỏ trong nhà.
Bố là trụ cột trong gia đình. Là người mà em yêu thương và luôn kính trọng. Em sẽ luôn ghi nhớ những lời dạy của bố để có thể trở thành một người sống có ích.
Gia đình – hai tiếng đầy thiêng liêng và trang trọng. Không giống như mẹ luôn dịu dàng chăm sóc. Bố lại luôn nghiêm khắc dạy dỗ. Nhưng đối với em, bố là người mà em cảm thấy yêu mến và kính trọng nhất.
Bố em năm nay đã bốn mươi hai tuổi. Dáng người cao, nhưng khá đầy đặn. Làn da của bố rám nắng bởi hàng ngày phải làm việc nhiều dưới ánh nắng mặt trời. Mọi người thường nói em rất giống bố ở khuôn mặt nhỏ nhắn, vầng trán cao, đôi mắt đen láy và hiền từ. Giọng nói của bố trầm và nụ cười ấm áp khiến em luôn cảm thấy hạnh phúc khi được gần bên bố. Đôi bàn tay của bố thô ráp, em biết đó là những dấu vết của thời gian, của bao vất vả bố đã hi sinh để lo lắng cho chúng em một cuộc sống đủ đầy hơn.
Bố em làm nghề lái xe, công việc của bố là chuyển những chuyến hàng đi đến khắp mọi miền tổ quốc. Vì vậy, bố thường xuyên phải xa nhà. Mỗi khi có ngày nghỉ, bố lại dành thời gian ở bên gia đình. Bố luôn lo lắng và rất thương hai mẹ con em. Bố luôn dặn em phải chăm chỉ học hành, không được làm mẹ buồn và lo lắng. Mỗi lần đi xa về, bố đều tặng em những món quà nhỏ từ những miền đất nơi bố đã từng đi qua. Em rất thích thú khi được nghe bố kể về quê hương đất nước Việt Nam vô cùng tươi đẹp và rộng lớn. Đó là động lực thôi thúc em cố gắng học tập thật tốt để tương lai có thể đặt chân đến mọi miền tổ quốc.
Những lúc không phải làm việc, bố thường đưa em đi chơi. Hoặc khi em đạt được danh hiệu học sinh giỏi, bố sẽ mua cho em những món đồ chơi, sách vở, quần áo mà em thích. Không chỉ vậy, bố cũng dạy em rất nhiều điều hay lẽ phải trong cuộc sống. Bố của em giống như người thầy với những lời khuyên bổ ích, người cho em động lực và niềm tin để vượt qua mọi giây phút buồn vui. Bố vừa là một người thầy, vừa là một người bạn của em vậy.
Em cảm thấy bố là một người cha tuyệt vời. Em sẽ cố gắng học tập thật tốt để bố luôn cảm thấy tự hào về mình. Em rất yêu bố của mình.
Trong cuộc sống, tình cảm gia đình là đáng trân trọng nhất. Bởi những người thân luôn yêu thương, bảo vệ chúng ta. Và người yêu thương, gắn bó với em nhất chính là bố.
Bố em năm nay đã bốn mươi lăm tuổi. Dáng người cao nhưng hơi gầy. Những dấu vết của thời gian đã in hằn trên khuôn mặt của bố. Khuôn mặt vuông chữ điền, mái tóc cắt ngắn đã điểm vài sợi bạc. Làn da ngăm đen vì những tháng ngày vất vả làm việc. Đôi mắt của bố sáng như những vì sao trên bầu trời đêm vậy. Nhưng em thích nhất là đôi bàn tay to lớn, chai sần nhưng tràn đầy ấm áp. Mọi công việc nặng nhọc trong nhà, bố đều làm giúp hai mẹ con.
Bố em là một giáo viên Trung học cơ sở. Bố là giáo viên dạy môn Toán. Mỗi khi có bài tập khó, em thường nhớ bố hướng dẫn. Bố là một người cha nghiêm khắc nhưng cũng rất tâm lí. Mỗi khi rảnh rỗi, bố lại đưa hai mẹ con đi chơi. Bố cũng rất giỏi nấu ăn. Món tủ của bố là sườn xào chua ngọt. Đó cũng là món em thích nhất. Từ nhỏ đến lớn, bố đã dạy cho em rất nhiều điều bổ ích. Bố đã rèn luyện em trở thành một đứa trẻ tự lập, biết yêu thương mọi người xung quanh.
Em vẫn còn nhớ một kỉ niệm hồi năm tuổi. Khi đó, mẹ đi công tác xa. Một hôm, em bị ốm. Bố đã chăm sóc em rất chu đáo. Bố nấu cháo cho em ăn, giúp em uống thuốc. Đến khi mẹ về nhà, em đã khỏe mạnh hoàn toàn. Thời gian qua đi, bố ngày càng có tuổi. Có nhiều lúc đi làm về, em cảm nhận được sự mệt mỏi của bố. Nhưng bố chưa bao giờ than vãn. Mà bố vẫn luôn là điểm tựa vững chắc của hai mẹ con.
Người bố quả thật luôn dành cho con tình yêu thương đặc biệt. Bởi vậy, chúng ta phải luôn dành sự yêu thương và kính trọng cho những người cha của mình.
Viết Đoạn Văn Trình Bày Suy Nghĩ Của Em Về Tình Mẫu Tử ❤️️
Viết Đoạn Văn Trình Bày Suy Nghĩ Của Em Về Tình Mẫu Tử ❤️️ 15 Bài ✅ Không Có Bất Kì Tình Yêu Nào Là Vô Điều Kiện Như Tình Yêu Của Mẹ Dành Cho Con.
Mỗi chúng ta, ai sinh ra và lớn lên cũng có một người mẹ. Mẹ là người có công cưu mang chín tháng mười ngày. Mẹ là người chở che, bảo vệ, dưỡng dục và nuôi ta khôn lớn. Tình yêu thương của mẹ là tình cảm cao đẹp nhất mang tên : tình mẫu tử.
Tình yêu thương của mẹ là sức mạnh nuôi ta khôn lớn. Ngay từ khi còn chưa rõ hình hài, chỉ là một sinh linh bé nhỏ mới bắt đầu sự sống con người đã được đón nhận một thứ tình yêu vị tha và vô hạn: tình mẹ. Rồi từng ngày từng ngày trôi, chúng ta lớn dần lớn dần trong bụng mẹ.
Chúng ta ngày càng lớn, cơ thể mẹ ngày càng nặng nề. Những tháng đầu của thai kỳ mẹ đã trải qua biết bao những khó khăn, chỉ mong bảo vệ được sinh linh bé nhỏ đang lớn dần trong bụng mẹ. Đứa con càng lớn thì mẹ càng mệt mỏi hơn, nhưng mẹ vẫn luôn vui và chờ mong đến ngày được gặp thiên thần bé nhỏ của mẹ. Con người gọi mẹ là người phụ nữ, là phái yếu, nhưng mẹ không yếu mềm, sẵn sàng trải qua cuộc vượt cạn một mình để được gặp đứa con thân yêu.
Tình yêu thương của mẹ sẽ gửi vào những lời ru, những câu hát, đong đầy nơi ánh mắt mỗi khi ngắm nhìn bé con xinh đẹp của mình. Khi con ốm, mẹ sẽ thức trắng đêm trông con, săn sóc. Mỗi ngày nhìn con dần lớn khôn là hạnh phúc của những người mẹ. Đó là sức mạnh vô biên của tình mẫu tử.Mỗi một ngày con lớn hơn một chút, là mỗi một ngày mẹ lại già thêm.
Từ khi có con, con đã trở thành mối quan tâm hàng đầu trong cuộc đời của mẹ. Có những người mẹ quên mình, không quản nắng mưa nhọc nhằn, làm tất thảy để cho con cái không thua bạn kém bè. Tình yêu ấy trao đi không một chút tính toan .
Tình yêu ấy là cả một đức hi sinh cao cả. Có những lúc, đứa con còn ngây dại chưa hiểu được điều đó. Chúng không biết rằng mẹ chúng làm tất cả để chúng có cuộc sống tốt đẹp nhất có thể. Thậm chí có những đứa trẻ căm ghét mẹ vì mẹ chúng không đáp ứng được những điều mà chúng mong muốn.
Có những đứa con lầm đường lạc lối, bị cả xã hội ruồng bỏ, nhưng đối với những người mẹ, dù có đau đớn, xót xa, nhưng chúng vẫn là những đứa con đáng thương cần được chở che và bảo vệ. Trong cuộc sống này, không có gì là miễn phí ngoài tình yêu của mẹ cha.Tình yêu thương của mẹ là thứ tình cảm thiêng liêng nhất trên đời.
Gợi Ý 💦 Viết Một Đoạn Văn Ngắn Gọn ❤️️ 21 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Viết Đoạn Văn Trình Bày Suy Nghĩ Của Em Về Tình Mẫu Tử Ngắn Gọn giúp các em có thêm nhiều tư liệu để ôn tập thật tốt.
Từ bao đời nay, tình mẹ luôn được ngợi ca như biển cả, “như nước trong nguồn chảy ra”. Quả thực vậy tình mẫu tử là một tình cảm thiêng liêng, cao quý theo ta suốt cuộc đời này. Mẹ là người đã phải trải qua chín tháng mười ngày vất vả, khổ cực để sinh thành nên ta, mẹ nuôi dưỡng ta bằng tiếng hát, bằng dòng sữa mát ngọt dịu êm.
Mẹ tần tảo lo lắng nuôi dạy cho ta thành người, mẹ như ánh sao rực rỡ soi sáng cuộc đời của ta, làm sao có thể nói hết công lao to lớn, vĩ đại của mẹ, làm sao gánh hết những vất vả, nhọc nhằn mẹ chịu vì con.
Mỗi lần cất tiếng gọi mẹ là lòng ta lại dâng trào bao cảm xúc, mẹ – chỉ một từ thôi sao mà thiêng liêng quá đỗi. Mẹ như người thầy, người chị chia sẻ với ta những kinh nghiệm sống, động viên ta những lúc ta buồn, thất bại trong học tập, chia tay với người yêu. Mẹ là động lực để ta tin tưởng và có niềm tin vào cuộc đời, mẹ luôn là người dang tay đỡ ta khi ta vấp ngã, khi ta khó khăn.
Mẹ vất vả, hi sinh cả cuộc đời mình cho ta mà không than thở điều gì cả, có những lúc ta cáu giận vô cớ, nặng lời với mẹ, mẹ chỉ im lặng, mẹ lặng lẽ giấu nước mắt trong nụ cười với ta. Mẹ luôn động viên, tin tưởng vào quyết định của ta.
Mẹ, tình mẹ cao cả và tuyệt vời biết bao, mỗi chúng ta cần phải biết trân trọng, yêu thương, chăm sóc, quan tâm đến mẹ nhiều hơn nữa, có bao giờ chúng ta để ý đến tóc mẹ đã điểm những sợi bạc, có hay những nếp nhăn hằn nơi khóe mắt. Hỡi những ai đang còn có mẹ bên mình, hãy trân trọng những phút giây quý báu này: “Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc. Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe không ?”.
Tham Khảo 🌼 Viết Đoạn Văn Nghị Luận ❤️️ 15 Bài Mẫu Ngắn Gọn Hay Nhất
Cuộc sống con người có rất nhiều tình cảm thiêng liêng đáng quý, đáng trân trọng nhưng có lẽ tình cảm đẹp đẽ nhất không gì sánh bằng chính là tình mẫu tử. Tình mẫu tử là tình cảm yêu thương, sự nâng niu, quan tâm chăm sóc bằng cả tấm lòng mà mẹ dành cho con đồng thời là tình yêu thương, sự biết ơn, kính trọng mà người con dành cho mẹ mình.
Từ tình yêu thương dành cho chúng ta, mẹ dành hết tâm huyết để chăm sóc, dạy dỗ ta nên người, hun đúc cho ta những tình cảm cao quý khác với một mong ước ta trở thành người có ích cho xã hội và có một tấm lòng lương thiện.
Từ ý nghĩa cao đẹp đó, mỗi người con cần có trách nhiệm yêu thương mẹ, tích cực trau dồi kiến thức để trở thành một người hiền tài, luôn khắc ghi công lao to lớn của mẹ và đền đáp công ơn ấy bằng hành động thiết thực, xứng đáng. Không gì thay thế được tình mẹ, không gì quý giá hơn tình mẹ, chính những nghĩa cử cao đẹp đó mà tình mẹ đã đi vào thơ ca từ lâu đời và nổi bật là câu thơ: “Tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào.”
Chia sẻ cơ hội 🌿 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌿 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới
Viết Đoạn Văn Trình Bày Suy Nghĩ Của Em Về Tình Mẫu Tử Đặc Sắc được nhiều bạn đọc quan tâm và chia sẻ sau đây.
Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”… Vâng, từ xưa đến nay mỗi khi nhắc đến hình tượng người mẹ, chúng ta luôn nghĩ đến một tình cảm thật bao la, chân thành và ấm áp chứa chan bao tình yêu. Thật cao quý và may mắn biết bao đối với những ai còn mẹ. Lòng mẹ, cũng chính là tình mẫu tử. Đó là một thứ thiêng liêng, quý giá xuất phát từ tâm hồn long lanh như pha lê, dịu ngọt như dòng suối của mẹ dành cho đứa con thân yêu của mình. “Mẫu” là mẹ, “tử” là con.
Hai từ này hầu như chưa bao giờ xa cách, ví như cho dù họ có cách xa bao lâu, bao xa thì tâm hồn của mẹ và con luôn hòa quyện vào nhau. Khi con còn bé thơ, từ lúc vừa chào đời đã được bàn tay của mẹ dỗ dành, nâng niu. Một chút lớn nữa, mẹ cũng là người đỡ từng bước đi đầu tiên. Khi đi học, cũng có những lúc con ham chơi khiến mẹ buồn lòng nhưng bà vẫn không bao giờ buồn hay hờn trách con, luôn chỉ bảo cho con thứ gì đúng, thứ gì sai.
Tất cả những đều đấy đã đều chứng minh được thế nào là tình mẹ. Và con cũng đã đáp lại tình cảm ấy bằng sự thành công, sự hiếu thảo mà mỗi người đều có thể đạt được bằng chính sự nỗ lực của mình. Nhưng tình con dành cho mẹ không bao giờ bằng tình mẹ dành cho con.
Đó cho ta thấy sự tuyệt diệu về đức hi sinh của người “mẫu”, người mẹ mà ta không thể lí giải được. Không thể không nói đến một số trưởng hợp ngoại lệ. Cũng đã có nhiều người mẹ nhẫn tâm vứt bỏ đi cốt nhục, những đứa con ruột thịt của mình không lí do.
Tôi không thể hiểu được tại sao lại có người như thế. Những việc như vậy có đã để bị xã hội chê trách không? Hay sâu trong tâm hồn của họ đang nghĩ những gì, có ăn năn hối hận không? Chúng chỉ là những đứa trẻ thơ cần tình thương ấm áp, dịu ngọt của mẹ thôi mà…
Họ đã vô tình làm vấy bẩn sự thiêng liêng cao quý của ba chữ vàng “tình mẫu tử“ mà chúng ta hằng nghĩ đến và yêu quý nó. Mẹ dành tình cảm cao quý, đầy sự hi sinh khắc khổ đó cho con thì con cũng phải đáp lại bằng những thứ thiêng gần như thế. Mẹ không bao giờ đòi hỏi nhiều ở con, luôn mong con thành đạt, hạnh phúc thì đó cũng chính là niềm vui của mẹ.
Và đồng thời con cũng là niềm tin, là hi vọng, hoài bão của mẹ. Tất cả những gì tốt nhất cũng đều dành cho con. Những ai đang còn mẹ thì hãy biết quý trọng và giữ gìn nó. Có những thứ khi đã qua rồi thì không bao giờ lấy lại được. Tình cảm của mẹ như ánh sáng trên cao, bóng mát trên cao, như dòng sữa ngọt ngào. Cuộc đời thật công bằng biết bao khi đã cho cho mỗi người chúng ta thứ gọi là “tình mẫu tử“….
Xem Nhiều Hơn 💦 Viết Đoạn Văn 200 Chữ ❤️️Cách Viết & 24 Bài Văn Hay Nhất
Mẹ – một người phụ nữ tuyệt vời mà có lẽ chúng ta sẽ không thể trả nổi, nó còn được gọi là tình mẫu tử. Giữa đứa con và người mẹ có một sự gắn kết thật mạnh mẽ nhưng cũng rất khác biệt. Thực tế cho thấy, chúng ta đã thấy những hình ảnh, tin tức về tình mẫu tử hay qua những bộ phim cũng đủ ta cảm thấy ướt.
Ôi! Tình mẫu tử thật thiêng liêng, cao cả, nó chứa chan cả bầu trời yêu thương. Bạn có biết không, tình mẫu tử còn hơn cả những chữ tình khác. Nó không ồn ào như tình bạn, không đau khổ hư tình yêu mà chỉ âm thầm quan tâm một cách lặng lẽ, bình dị. Chao ôi! Tình mẫu tử thật tuyệt vời biết bao.
Bài mẫu Viết Đoạn Văn Trình Bày Suy Nghĩ Của Em Về Tình Mẫu Tử Ấn Tượng giúp các em có thể truyền tải đi nhiều thông điệp ý nghĩa trong cuộc sống.
Đời sống tình cảm của con người vô cùng phong phú nhưng tình mẫu tử là tình cảm có vị trí đặc biệt quan trọng. Khi nói đến tình mẫu tử người ta thường nghĩ ngay đến tình cảm yêu thương, che chở, bảo vệ… của người mẹ dành cho con.
Đây là thứ tình cảm thiêng liêng nhất đối với mỗi người bởi lẽ tình mẫu tử là tình cảm đầu tiên mà mỗi người sinh ra đều cảm nhận được và sẽ gắn bó với nó trong suốt cuộc đời. Từ khi mẹ mang nặng đẻ đau, nâng đỡ con khi chập chững vào đời, sánh bước cùng con qua từng nấc thang của cuộc đời.
Đồng thời tình mẫu tử cũng là tình cảm cao cả nhất bởi mẹ là người bao dung ta trong mọi hoàn cảnh, là nơi cho ta nương tựa mỗi lần vấp ngã, là nơi để ta gửi gắm những điều thầm kín, là nguồn động lực giúp ta vững vàng trong giông tố. Vì vậy, cần trân trọng tình cảm ấy, sống làm sao cho thật xứng đáng với công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ.
Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone
Bài mẫu Viết Đoạn Văn Trình Bày Suy Nghĩ Của Em Về Tình Mẫu Tử Chọn Lọc, giúp các bạn đọc có thể học hỏi và rèn luyện thêm kĩ năng cho mình.
Tình mẫu tử là một trong những tình cảm thiêng liêng và cao quý nhất đối với mỗi người. Mẹ là người thân yêu và gần gũi với chúng ta nhất và có vai trò quan trọng trong quá trình lớn lên và trưởng thành của chúng ta.
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ/Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”. Từ những ngày mang bầu chúng ta, mẹ đã phải chịu biết bao nhọc nhằn vất vả. Chín tháng mang nặng đẻ đau rồi đau đớn vô cùng để chúng ta được có mặt trên cõi đời này. Tiếp theo, mẹ là người dõi theo từng quá trình lớn lên của chúng ta.
Mẹ là người thầy uốn nắn cho con những bài học làm người đầu tiên. Mẹ còn là người bạn luôn ở bên lắng nghe giúp đỡ chúng ta bất cứ khi nào có thể. Tình yêu thương của mẹ lúc nào cũng là vô điều kiện. Chao ôi! Mọi sự thành công của chúng ta đều có mẹ ở bên hi sinh thầm lặng, cổ vũ và động viên. Tóm lại, tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng cao đẹp mà mỗi người con cần phải trân trọng và tôn thờ.
Đón Đọc 💦 Viết Một Đoạn Văn Về Tình Mẫu Tử ❤️️19 Bài Nghị Luận Hay
Trong cuộc đời mỗi người, tình mẫu tử bao giờ cũng gần gũi và thiêng liêng nhất. Tình mẫu tử là tình cảm đầu đời của mỗi con người, từ khi được sinh ra, cho đến khi lớn mẹ vẫn luôn nuôi nấng, chăm sóc, nâng đỡ chúng ta. Vẫn nhớ câu thơ của nhà thơ Chế Lan Viên “Con dù lớn vẫn là con của mẹ/Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con”.
Viết Đoạn Văn Trình Bày Suy Nghĩ Của Em Về Tình Mẫu Tử Giàu Cảm Xúc để lại nhiều ấn tượng khó phai trong lòng các bạn đcọ.
Tình mẫu tử là thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng. Tình mẫu tử là tình cảm thương yêu, đùm bọc, che chở,… mà người mẹ dành cho con. Tình cảm ấy vừa tự nhiên vừa cao cả nên sẽ đi theo mỗi người suốt cuộc đời. Tình yêu thương của mẹ nuôi dưỡng dạy những đứa con trưởng thành.
Chao ôi! Thử nghĩ mà xem nếu không có mẹ trên đời thì chúng ta sẽ đáng thương biết nhường nào. Hỡi những ai đang còn có mẹ bên mình, hãy trân trọng những phút giây quí báu này: “Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc. Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe không?”.
Tham Khảo 🌼 Viết Đoạn Văn Ngắn Tả Về Mẹ ❤️️ 18 Bài Văn Mẫu Hay Nhất
Bài mãu Viết Đoạn Văn Ngắn Trình Bày Suy Nghĩ Của Em Về Tình Mẫu Tử được nhiều bạn đọc chia sẻ rộng rãi trên các diễn đàn văn học nổi tiếng sau đây.
Thế giới bao la, rộng lớn này có lẽ chẳng có gì sánh nổi sự cao lớn, thiêng liêng của tình mẫu tử. Đó chính là thứ tình cảm trường tồn với thời gian, dù ta là ai, giới tính nào và bao nhiêu tuổi. Nhắc đến tình mẫu tử, bất giác tôi lại nhớ về câu thơ của Chế Lan Viên: “Con dù lớn vẫn là con của mẹ/ Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con”.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta lại ngợi ca về tình mẫu tử, bởi nó chính là tình yêu cao quý giữa người mẹ và đứa con. Người mẹ đã dùng cả tuổi xuân, hi sinh vô điều kiện để đổi lấy năm tháng hồn nhiên, vô tư lự đến bình yên của con cái.
Chúng ta, tất thảy ai cũng may mắn được nuôi dưỡng từ bầu sữa mẹ mát lành, là câu ca dao mỗi đêm mẹ ru và những bữa cơm ngon chan chứa tình yêu thương. Làm mẹ là trách nhiệm lớn lao mà ông trời giao phó cho người phụ nữ. Chín tháng mười ngay mang nặng đẻ đau, người mẹ phải trải qua biết bao khó khăn vất vả.
Thế nhưng, đối với họ điều đó không sá gì khi nhìn thấy đứa con mình khôn lớn, trưởng thành. Đối với người con, mẹ là điểm tựa nâng đỡ ta mỗi khi vấp ngã, đồng thời cũng là người bạn để ta gửi gắm những lời yêu thương.
Tình mẫu tử thiêng liêng là thế, nào đâu có gì ngăn nổi. Thế nhưng, nhìn ra ngoài kia vẫn còn có bao nhiêu mảnh đời bất hạnh, sinh ra không biết mặt mẹ, bơ vơ, không người vỗ về, chăm sóc. Những hoàn cảnh như thế, khi lớn lên sẽ rất dễ sa vào các tệ nạn xã hội, làm nô lẹ cho cái ác.
Thấy được nhu vậy để chúng ta thấu hiểu rằng, vai trò của người mẹ quan trọng như thế nào đối với cuộc sống của chúng ta. Do đó, những ai may mắn còn mẹ, đang sống trong vòng tay của mẹ xin đừng làm mẹ buồn.
Để xứng đáng với công ôn dưỡng dục của mẹ, chúng ta nên cố gắng học hành chăm chỉ, ngoan ngoãn, vâng lời để bố mẹ được vui. Nhân lúc còn sống ở cạnh mẹ, hãy mạnh dạn bày tỏ sự kính yêu của mình đối với họ. Bạn không nhất thiết mỗi ngày đều nói “con yêu mẹ”, chỉ cần trong trái tim mình luôn khắc ghi hình bóng mẹ và dặn lòng sống làm sao cho xứng đáng với kì vọng của mẹ.
Tôi tin rằng, một ngày nào đó, mẹ sẽ lần nữa dang rộng vòng tay chào đón bạn trở về trong những thành công của cuộc đời.
Gợi Ý 🌼 Viết Đoạn Văn Tả Hoạt Động Của Một Người Mà Em Yêu Mến ❤️️ 15 Mẫu Hay
Hãy Viết Đoạn Văn Trình Bày Suy Nghĩ Của Em Về Tình Mẫu Tử Sinh Động để trau dồi cho mình thêm nhiều kĩ năng viết tốt hơn.
Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” Vâng đúng là như vậy. Mọi người sinh ra đều mang trong mình một tình mẫu tử thiêng liêng và cao cả. Tình mẹ ấm áp, bao dung dành cho con hay tình cảm kính trọng yêu quý của những đứa con dành cho mẹ mình cũng bao điều tốt đẹp.
“ Mẹ! “- thật thiêng liêng và cao đẹp biết bao. Mẹ là người đã mang nặng đẻ đau, là người chấp cho ta những đôi cánh ước mơ để bay đến chân trời hy vọng. Những việc làm và tình cảm mẹ dành cho con không gì có thể sánh bằng. Tình mẹ ấm áp như vầng thái dương, dịu hiền như dòng sông xanh.
Ngay từ những ngày đầu, mẹ là người nâng đỡ , yêu thương chúng ta. Ngay cả khi lớn lên, mẹ vẫn sát cánh cùng chúng ta trên con đường đời đầy gian lao và thử thách. Tình mẫu tử cao quý ấy không gì có thể sánh bằng. Và cũng chính vì vậy mà những đứa con luôn trân trọng điều ấy. Chúng ta phải đáp lại những tình cảm mà mẹ dành cho mình qua những biểu hiện cụ thể.
Chúng ta phải siêng năng học hành, nghe lời cha mẹ. Như vậy, tình mẫu tử càng trở nên cao cả. Tình mẫu tử được thể hiện trong các câu hát, câu thơ mượt mà và sâu lắng. Có câu hát nói rằng “ Tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào…” ,tình mẹ bao la, vô tận được so sánh như biển Thái Bình rộng lớn.
Gợi ý cho bạn 💧 Viết Đoạn Văn Có Sử Dụng Câu Rút Gọn 💧 15 Bài Hay Nhất
Viết Đoạn Văn Trình Bày Suy Nghĩ Của Em Về Tình Mẫu Tử Luyện Viết để cải thiện thêm kĩ năng viết của mình để đạt được điểm cao trong kì thi của mình.
Tình mẫu tử là tình cảm ruột thịt thiêng liêng cao qúy giữa người mẹ và đứa con. Đó là sự hy sinh vô điều kiện của người mẹ vì hạnh phúc và thành công của con cái mình, là sự tôn trọng, biết ơn và khắc cốt ghi tâm tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào, vô tận.
Chúng ta với sự hữu hạn của tâm hồn và lý trí không bao giờ có thể cân đong đo đếm được giá trị thiêng liêng và vai trò to lớn của người mẹ trong hành trình trưởng thành, trong hành trình sống làm người của mỗi người. Tình mẫu tử là suối nguồn yêu thương vĩ đại nhất mà nhân loại được ban tặng.
Tình mẫu tử giúp ta được sống đầy đủ và phong phú hơn với những nguồn tình cảm vốn xứng đáng được hưởng đặc quyền như nhau. Hãy thử nhìn những số phận bất hạnh ngoài kia, những người mồ côi không nơi nương tựa đang khao khát tình mẹ, khao khát được một lần áp mặt vào bầu sữa nóng của mẹ, được mẹ gối đầu, được sà vào vòng tay âu yếm của mẹ mà khó biết bao. Tình mẹ là điểm tựa vững chắc và mạnh mẽ giúp ta vượt qua những chông gai của cuộc đời.
Mỗi khi cuộc sống khó khăn, mỗi khi thất bại tưởng chừng gục ngã, bên cạnh mẹ và những lời động viên của mẹ là liều thuốc thần tiên tiếp thêm cho ta sức mạnh để soi đường chỉ lối, giúp ta vượt lên phía trước. Tình mẹ bao la luôn dung chứa và khoan dung, độ lượng, nhân hậu vô điều kiện với những sai lầm và tội lỗi ta gặp phải trong hành trình trưởng thành làm người.
Mẹ là ánh sáng trên cao soi đời con những lúc tăm tối, là ánh mặt trời bừng sáng để sưởi ấm và nạp đầy năng lượng cho những bước đi của con. Có những điều có thể mất đi, có thể thay thế nhưng tình mẫu tử thì không gì bù lấp được nếu mất đi.
Chia sẻ 🌼 Viết Một Đoạn Văn Ngắn Có Sử Dụng Quan Hệ Từ 🌼 15 Mẫu Hay
Vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất là trái tim người mẹ. Tình mẫu tử là tình mẹ con, thường được hiểu là tình cảm thương yêu, đùm bọc, che chở… mà người mẹ dành cho con.
Tình mẫu tử có vị trí đặc biệt, thiêng liêng và máu thịt nhất vì: đó là thứ tình cảm đầu tiên của mỗi người khi sinh ra và sẽ gắn bó trong suốt cuộc đời, vừa có yếu tố máu thịt (mẹ mang nặng đẻ đau, là người đầu tiên nâng đỡ, yêu thương, sát cánh cùng con trên đường đời), vừa mang tính cao cả (mẹ là nơi nương tựa cho mỗi đứa con sau mỗi lần vấp ngã; là nơi mỗi người con như chúng ta có thể thể lộ mọi điều thầm kín; là nguồn động viên; là tình yêu; là thứ tình cảm vừa tự nhiên, vừa mang tính trách nhiệm.
Tình mẫu tử còn mang trong mình cái cội rễ sâu xa của lòng nhân ái, cái truyền thống đạo lí – văn hóa và tập quán nghìn đời của dân tộc. Con người sẽ biết bao hạnh phúc, ấm áp nếu được sống trong tình mẫu tử; sẽ vô cùng bất hạnh và thiệt thòi nếu không được hưởng tình cảm đó.
Tình mẫu tử sẽ là sức mạnh giúp con người vượt lên những khó khăn của cuộc sống, có khả năng thức tỉnh những đứa con để sống cho tốt hơn, nên người hơn. Trong cuộc sống, có những hiện tượng trái với đạo lý (mẹ bỏ rơi con, con bỏ rơi mẹ…). Những người như thế thật đáng lên án.
Mẹ là người có thể thay thế tất cả ai khác nhưng không ai có thể thay thế được mẹ. Bởi thế, đừng bao giờ làm điều sai trái khiến cha mẹ buồn lòng. Đừng bao giờ đánh đổi sự hào nhoáng của mình bằng sự lam lũ vất vả của cha mẹ. Rồi đến ngày bạn sẽ nhận ra, bố mẹ là những người bạn dành ít thời gian, ít tâm sức cho họ nhất nhưng lại yêu thương bạn nhất.
Tham Khảo 🌹 Viết Đoạn Văn Có Sử Dụng Trường Từ Vựng ❤️️15 Mẫu Hay
Đoạn trích ”Trong lòng mẹ” là hồi ức đan xen cay đắng và ngọt ngào của chính nhà văn – cậu bé sinh ra trong một gia đình bất hạnh: Người cha nghiện ngập rồi chết mòn, chết rục bên bàn đèn thuốc phiện, người mẹ cùng túng phải đi tha phương cầu thực, cậu bé Hồng đã phải sống trong cảnh hắt hủi ghẻ lạnh đến cay nghiệt của chính những người trong họ hàng.
Cậu bé phải đối mặt với bà cô cay nghiệt, luôn luôn “tươi cười” – khiến hình dung đến loại người “bề ngoài thơn thớt nói cười – mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Đáng sợ hơn, sự tàn nhẫn ấy lại dành cho đứa cháu ruột vô tội của mình. Những diễn biến tâm trạng của bé Hồng trong câu chuyện đã được thuật lại bằng tất cả nỗi niềm đau thắt vì những ký ức hãi hùng kinh khiếp của tuổi thơ. Kỳ diệu thay, những trang viết ấy lại giúp chúng ta hiểu ra một điều thật tự nhiên giản dị: Mẹ là người chỉ có một trên đời, tình mẹ con là mối dây bền chặt không gì chia cắt được
Trước khi gặp mẹ: Nói một cách công bằng, nếu chỉ nhìn vào bề ngoài cuộc sống của cậu bé Hồng, có thể nói cậu bé ấy vẫn còn may mắn hơn bao đứa trẻ lang thang vì còn có một mái nhà và những người ruột thịt để nương tựa sau khi cha mất và mẹ bỏ đi. Nhưng liệu có thể gọi là gia đình không khi chính những người thân – mà đại diện là bà cô ruột lại đóng vai trò người giám hộ cay nghiệt.
Tấm lòng trẻ thơ ấy thật đáng quí. Đối với bé Hồng, bao giờ mẹ cũng là người tốt nhất, đẹp nhất. Tình cảm của đứa con đã giúp bé vượt qua những thành kiến mà người cô đã gieo rắc vào lòng cậu.
“Vì tôi biết rõ, nhắc đến mẹ tôi, cô chỉ có ý gieo rắc vào đầu óc tôi những hoài nghi để tôi khinh miệt và ruồng rẫy mẹ tôi, một người đàn bà đã bị cái tội là góa chồng, nợ nần cùng túng quá, phải bỏ con cái đi tha phương cầu thực. Nhưng đời nào lòng thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến…”
Nhưng ta cũng nhận ra những vết thương lòng đau nhói mà bé Hồng đã sớm phải gánh chịu. Sự tra tấn tinh thần thật ghê gớm. Sức chịu đựng của một cậu bé cũng có chừng mực. Ta chứng kiến và cảm thương cho từng khoảnh khắc đớn đau, cậu đã trở thành tấm bia hứng chịu thay cho mẹ những ghẻ lạnh, thành kiến của người đời: “Tôi lại im lặng cúi đầu xuống đất: Lòng tôi thắt lại, khoé mắt tôi đã cay cay”
Dù đã kìm nén hết mức nhưng những lời độc ác kia vẫn đạt được mục đích khi đã lấy được những giọt nước mắt tủi nhục của một đứa trẻ không đủ sức tự vệ. Ta chợt ghê sợ trước loại người như bà cô – họ vẫn lẩn quất đâu đó quanh ta, với trò tra tấn gặm nhấm dần niềm tin con trẻ. Liệu ta có hòa chung giọt nước mắt này chăng: “Nước mắt tôi ròng ròng rớt xuống hai bên mép rồi chan hòa đầm đìa ở cằm và cổ”.
Càng thương cho cậu bé Hồng, ta lại càng căm uất sự ghẻ lạnh của người đời trước những số phận bất hạnh. Từ nhận thức non nớt, cậu bé ấy cũng đã kiên quyết bảo vệ mẹ mình, bất chấp những thành kiến ác độc: “Chỉ vì tôi thương mẹ tôi và căm tức sao mẹ tôi lại vì sợ hãi những thành kiến tàn ác mà xa lìa anh em tôi, để sinh nở một cách giấu giếm… Tôi cười dài trong tiếng khóc”.
Dường như khoảnh khắc cười dài trong tiếng khóc kia chứa chất sự phẫn nộ và khinh bỉ không cần giấu giếm. Trong thâm tâm, liệu rằng cậu bé ấy có khi nào oán trách mẹ mình đã nhẫn tâm bỏ con không? Có lẽ không bao giờ, bởi lẽ niềm khao khát được gặp lại mẹ lúc nào cũng thường trực trong lòng cậu bé.
Ta xúc động biết bao nhiêu trước khoảnh khắc hồi hộp lo lắng của cậu bé khi sợ mình nhận nhầm mẹ. Linh cảm và tình yêu dành cho mẹ đã không đánh lừa cậu, để đền đáp lại là cảm giác của đứa con trong lòng mẹ – cảm giác được chở che, bảo bọc, được thương yêu, an ủi. Hình ảnh mẹ qua những trang viết của nhà văn thật tươi tắn sinh động, là sự diệu kỳ giúp cậu bé vượt lên nỗi cay đắng của những ngày xa mẹ.
Mỗi khi đứng trước mẹ, có lẽ mỗi một người trong chúng ta cũng sẽ cảm nhận được tình mẹ giống như cậu bé Hồng: “Mẹ tôi vừa kéo tay tôi, xoa đầu tôi hỏi thì tôi oà lên khóc rồi cứ thế nức nở”. Không khóc sao được, khi những uất ức nén nhịn có dịp bùng phát, khi cậu bé có được cảm giác an toàn và được chở che trong vòng tay mẹ.
Giới thiệu cùng bạn 🍀 Cảm Nghĩ Về Nụ Cười Của Mẹ ❤️️ 15 Bài Văn Hay Nhất
Bài mẫu Viết Đoạn Văn Trình Bày Suy Nghĩ Của Em Về Tình Mẫu Tử Lớp 8 sau đây giúp các em học sinh có thể tham khảo những ý văn đặc sắc để làm văn tốt hơn.
Tình mẫu tử chính là tình yêu thương vô bờ bến của người mẹ dành cho đứa con của mình, không ai có quyền tước đi quyền lợi của một người mẹ dành tình cảm cho những đứa con, thật vậy, để sinh ra chúng ta mẹ đã rất vất vả, trải qua bao sự đau đớn, mang nặng đẻ đau ra chúng ta.
Đáp lại những tình cảm ấy, người con luôn hiếu thảo và dành cho mẹ những điều tốt đẹp nhất. Ta được khỏe mạnh, được thỏa mái học tập vui chơi như bây giờ, phía sau chính là sự hy sinh của mẹ, biết rằng sau khi đẻ cái xong, cơ thể người phụ nữ thay đổi rất nhiều, không còn eo thon, ít có thời gian dành cho bản thân hơn, phải lo cho chồng, lo cho con.
Mới sinh phải kiêng cữ rất vất vả, trông con ăn, trông con ngủ, đêm qua đêm, ngày qua ngày và rồi tuổi thanh xuân mẹ cứ mãi thế trôi dần đi, để lại trên cơ thể mẹ là những nếp nhăn, làn da không còn được như thời con gái, không có thời gian đi chơi mà hầu hết dành cho tổ ấm của mình, cho đứa con mà mình sinh ra.
Con cái chính là hạnh phúc to lớn mà ông trời ban tặng cho mẹ, vì thế mẹ luôn dành cho con những điều tốt đẹp nhất, chỉ cần thấy con cười mỗi ngày, lòng mẹ đã hạnh phúc biết bao, khi con làm sai mẹ thẳng thắn dạy bảo chứ không bao che hay bỏ qua, mẹ dạy cho con biết bao điều hay lẽ phải trong cuộc sống.
Chia Sẻ 🌼 Viết Đoạn Văn Diễn Dịch Về Mẹ ❤️️15 Bài Mẫu Ngắn Hay Nhất
Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 9: Suy Nghĩ Về Việc Giữ Lời Hứa Với Mọi Người Xung Quanh Dàn Ý &Amp; 9 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất trên website Bvta.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!