Xu Hướng 9/2023 # Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Thể Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật 3 Dàn Ý &Amp; 8 Bài Văn Hay Lớp 8 Hay Nhất # Top 16 Xem Nhiều | Bvta.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Thể Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật 3 Dàn Ý &Amp; 8 Bài Văn Hay Lớp 8 Hay Nhất # Top 16 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Thể Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật 3 Dàn Ý &Amp; 8 Bài Văn Hay Lớp 8 Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Bvta.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Thất ngôn bát cú Đường luật là một thể thơ khá hay, thích hợp để truyền tải những tình cảm với quê hương, đất nước. Vậy mời các em cùng theo dõi 8 bài thuyết minh về thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật để hiểu sâu sắc hơn về thể thơ này, nhanh chóng hoàn thiện bài văn thuyết minh của mình.

1. Mở bài

Giới thiệu về thể loại Thất ngôn bát cú đường luật.

2. Thân bài

* Xuất xứ:

Xuất hiện lần đầu tiên vào thời nhà Đường ở Trung Quốc.

Thể thơ thất ngôn bát cú đường luật được du nhập vào Việt Nam từ thời kì Bắc thuộc.

* Đặc điểm của thể thơ:

Ngắn gọn nhưng có luật chặt chẽ. Mỗi bài có 8 câu, mỗi câu có bảy tiếng.

Luật bằng trắc: Tùy theo sáng tạo và ý đồ nghệ thuật của từng nhà thơ, có bài gieo vần bằng, có bài gieo vần trắc. Tuy nhiên số lượng bài thơ gieo vần bằng nhiều hơn.

Cách hiệp vần: Chữ cuối của câu một được hiệp vần với chữ cuối câu 2,4. Chữ cuối câu hai bắt vần với chữ cuối câu cuối.

Bố cục: 4 phần (Đề – thực – luận – kết)

2 câu đề: Giới thiệu về đối tượng, vấn đề cần nói đến

2 câu thực: Triển khai ý tứ từ 2 câu thơ đề

2 câu kết: Tổng kết, khép lại vấn đề

Ví dụ qua một bài thơ Thất ngôn bát cú đường luật.

* Đánh giá về thể thơ:

Thể thơ Thất ngôn bát cú đường luật ngắn gọn, hàm súc, giàu nhạc điệu.

Thi pháp chặt chẽ, số câu chữ bắt buộc phải tuân thủ, không được thêm bớt nên không dễ làm.

3. Kết bài

Khẳng định giá trị và vị trí của thể thơ Thất ngôn bát cú đường luật.

a. Mở bài:

Giới thiệu thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật.

b. Thân bài:

– Nêu đặc điểm của thể thơ:

Mỗi bài có bốn câu, mỗi câu có bảy tiếng.

Số dòng số chữ trong câu trong bài bắt buộc không được thêm bớt

Luật bằng trắc: có bài gieo vần bằng hoặc gieo vần trắc nhưng bằng là phổ biến

Cách đối: đối hai câu đầu hoặc hai câu cuối, có bài vừa đối hai câu đầu, vừa đối hai câu cuối hoặc không có đối.

Cách hiệp vần: Thường chữ cuối câu một bắt vần với chữ cuối câu 2,4. Chữ cuối câu hai bằng vần với chữ cuối câu cuối.

Bố cục:

4 phần: khai, thừa, chuyển, hợp

2 phần: 2 câu đầu tả cảnh, hai câu cuối tả tình

– Những nhận xét, đánh giá chung

Ưu điểm: là thể thơ Đường có sự kết hợp hài hoà cân đối cổ điển nhạc điệu trầm bổng đăng đối nhịp nhàng. Có nội dung rất đa dạng và phong phú.

Nhược điểm: Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt có thi pháp chặt chẽ, nghiêm cách, vô cùng đa dạng nhưng không hề đơn giản, số câu số chữ bắt buộc không được thêm bớt.

c. Kết bài:

Nêu vị trí của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt: Có vị trí quan trọng là một trong những thể thơ hay góp phần vào những thành tựu rực rỡ về thơ ca của nền văn học.

I. Mở bài:

Giới thiệu: Trong văn học Việt Nam, đặc biệt là văn học trung đại, thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật chiếm một vị trí quan trọng.

Các nhà thơ lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và Chủ tịch Hồ Chí Minh đều có những bài thơ hay viết theo thể thơ này.

II. Thân bài:

– Giới thiệu xuất xứ của thể thơ: Xuất hiện từ đời Đường – Trung Quốc và được thâm nhập vào Việt Nam từ rất lâu.

– Nêu đặc điểm của thể thơ:

Gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ.

Bài thơ gồm bốn phần đề – thực – luận – kết.

Phần đề gồm hai câu đầu, giới thiệu chung về vấn đề cần nói tới.

Hai câu 3-4 gọi là phần thực, có nhiệm vụ tả thực vấn đề.

Hai câu 5-6 gọi là phần luận. Phần này cũng đối nhau, có nhiệm vụ bàn luận, mở rộng vấn đề, làm cho ý thơ sâu sắc hơn.

Hai câu cuối gọi là phần kết, với nhiệm vụ kết thúc, tổng kết vấn đề.

Bài thơ Đường luật gieo vần ở tiếng cuối câu 1 – 2 – 4 – 6 – 8 và là vần bằng.

Bài thơ còn có niêm, câu 1 dính với câu 8; câu 2 với câu 3; câu 4 với câu 5; câu 6 với câu 7. Niêm có nghĩa là sự giống nhau về B – T theo nguyên tắc: “Nhất, tam, ngũ bất luận; Nhị, tứ, lục phân minh”.

Thông thường, thơ thất ngôn bát cú Đường luật ngắt nhịp 3/4 hoặc 4/3, đôi khi ngắt nhịp theo 2/2/3 hoặc 3/2/2 tùy theo mỗi bài.

– Ưu – nhược điểm: Thơ thất ngôn bát cú Đường luật ngắn gọn; hàm súc, cô đọng; giàu nhạc điệu; lời ít, ý nhiều nhưng khá gò bó, đòi hỏi niêm, luật chặt chẽ nên không dễ làm.

– Trong quá trình làm, nên lấy các ví dụ từ các bài thơ đã học để minh họa.

III. Kết bài:

Nêu giá trị của thể thơ này.

Thất ngôn bát cú Đường luật là một thể thơ khá hay và đặc sắc, thích hợp để truyền tải những tình cảm với quê hương, đất nước. Chính những nội dung đặc sắc mà thể thơ truyền tải đã phần nào nâng cao giá trị của thể thơ này. Những bài thơ mang trong đó những tình cảm mãnh liệt của tác giả, phá vỡ đi phần nào sự chặt chẽ về quy tắc của một thể thơ cổ, có sức sống lâu dài với thời gian.

Cấu trúc bài thơ thất ngôn bát cú gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Nếu tiếng thứ hai của câu 1 là vẫn bằng thì gọi là thể bằng, là vần trắc thì gọi là thể trắc. Thể thơ quy định rất nghiêm ngặt về luật bằng trắc. Luật bằng trắc này đã tạo nên một mạng âm thanh tinh xảo, uyển chuyển cân đối làm lời thơ cứ du dương như một bản tình ca. Người ta đã có những câu nối vấn đề về luật lệ của bằng trắc trong từng tiếng ở mỗi câu thơ: các tiếng nhất – tam – ngũ bất luận còn các tiếng: nhị – tứ – lục phân minh. Tuy nhiên trong quá trình sáng tác bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng – trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ.

Số dòng số chữ trong câu trong bài bắt buộc không được thêm bớt. Luật bằng trắc: có bài gieo vần bằng hoặc gieo vần trắc nhưng bằng là phổ biến. Cách đối: đối hai câu đầu hoặc hai câu cuối, có bài vừa đối hai câu đầu, vừa đối hai câu cuối hoặc không có đối. Cách hiệp vần: Thường chữ cuối câu một bắt vần với chữ cuối câu 2,4. Chữ cuối câu hai bằng vần với chữ cuối câu cuối. Bố cục: 4 phần: khai, thừa, chuyển, hợp, 2 câu đầu tả cảnh, hai câu cuối tả tình.

Luật bằng trắc là 1 trong những yếu tố quan trọng tạo nên nhịp điệu thơ bảy chữ, nó còn gọi là luật về sự phối thanh giữa các tiếng trong từng câu và các câu trong từng khổ, từng bài. Thanh bằng là thanh huyền và thanh ngang, thanh trắc là thanh hỏi, sắc, ngã, nặng. Trong mỗi câu thơ, sự phối thanh được qui định khá chặt chẽ theo quan điểm “Nhất tam ngũ bất luận” (Các tiếng 1, 3, 5 không xét tới) và “Nhị tứ lục phân minh” (Các tiếng 2, 4, 6 qui định rõ ràng). Quan hệ bằng trắc giữa các câu cũng được qui định chặt chẽ. Nếu dòng trên là bằng mà ứng với dòng dưới là trắc thì gọi là đối, ứng với dòng dưới cũng là bằng hoặc ngược lại thì gọi là niêm với nhau.

Trong thơ thất ngôn bát cú, quan hệ bằng trắc giữa các các câu trong mỗi phần đề, thực, luận, kết phải đối nhau; còn 1-8, 2-3, 4-5, 6-7 phải niêm với nhau. Theo quan điểm, ta có thể thấy rõ sự qui định nghiêm ngặt về niêm, luật trong thơ thất ngôn bát cú. Chỉ cần dựa vào tiếng thứ hai của câu mở đầu, ta có thể biết bài được viết theo luật bằng hay trắc, ví dụ:…. Tuy nhiên, trong thơ hiện đại không đòi hỏi niêm luật này.

Ưu điểm của thể thơ này đó chính là thể thơ Đường có sự kết hợp hài hoà cân đối cổ điển nhạc điệu trầm bổng đăng đối nhịp nhàng. Có nội dung rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên bên cạnh đó nó còn mang những nhược điểm như: Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt có thi pháp chặt chẽ, nghiêm cách, vô cùng đa dạng nhưng không hề đơn giản, số câu số chữ bắt buộc không được thêm bớt.

Thất ngôn bát cú Đường luật là một thể thơ khá hay và đặc sắc, thích hợp để truyền tải những tình cảm với quê hương, đất nước đất nước. Chính những nội dung đặc sắc mà thể thơ truyền tải đã phần nào nâng cao giá trị của thể thơ này. Những bài thơ mang trong đó những tình cảm mãnh liệt của tác giả, phá vỡ đi phần nào sự chặt chẽ về quy tắc của một thể thơ cổ, có sức sống lâu dài với thời gian. Tóm lại, thất ngôn bát cú thực sự là một thể thơ tuyệt vời giúp các thi sĩ dệt lên những trang thơ hay, những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc lưu truyền mãi đến về sau.

Thơ Đường luật là một thành tựu lớn của nền thơ cổ điển Trung Hoa. Từ khi ra đời vào thời nhà Đường, các thể thơ này đã nhanh chóng lấn lướt thể thơ cổ phong có mặt từ trước đó. Thơ Đường luật chia thành các thể tứ tuyệt, bát cú và trường thiên. Trong đó,thể thơ thất ngôn bát cú là thể thơ rất phổ biến và quen thuộc trong thơ ca Việt Nam thời trung đại. Nhiều kiệt tác thơ ca lưu lại đến đời sau kiệt tác để lại cho đời sau đều được làm bằng thể thất ngôn bát cú. Bài thơ “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” của Phan Bội Châu là một điển hình:

Bài thơ được sáng tác khi Phan Bội Châu bị bọn quân phiệt tỉnh Quảng Đông bắt giam trong ngục. Bài thơ thể hiện phong thái ung dung đường hoàng và khí phách kiên cường, bất khuất vượt lên trên cảnh tù ngục khốc liệt của tác giả.

Bài thơ này gồm tám câu, mỗi câu có bảy chữ, tổng cộng cả bài có năm mươi sáu chữ (tiếng).

Về phần bố cục, bài thơ được chia làm bốn phần: Đề – Thực – Luận – Kết. Mỗi phần có hai câu thơ và giữ một chức năng riêng.

Câu một và hai là (Đề) nói lên phong thái ung dung, thanh thản, đầy khí phách của người chí sĩ cách mạng khi bị lâm vào cảnh tù đày. Câu ba và bốn (Thực) nói về cuộc đời bôn ba của người chiến sĩ cách mạng, gắn liền với tình cảnh chung của đất nước, nhân dân. Hai câu năm và sáu (Luận) thể hiện khí phách hiên ngang, một hoài bão phi thường của người anh hùng muốn làm nên sự nghiệp vĩ đại. Hai câu cuối (Kết) khẳng định tinh thần, ý chí kiên cường trước mọi hiểm nguy thử thách.

Vần trong thơ được làm theo vần bằng ở cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8 tức là tiếng “lưu” vần với các chữ khác “tù” “châu” “thù” “đâu”, và được làm theo lối “độc vận”, có nghĩa là cả bài chỉ hiệp theo một vần. Tuy nhiên, vần trong bài thơ cũng thoáng hơn để nhằm bộc lộ tâm trạng, khí phách của nhà thơ.

Đối là đặt hai câu đi song song với nhau cho ý và chữ trong hai câu ấy cân xứng với nhau, hô ứng với nhau một cách hài hoà. Trong bài thơ, tác giả tuân thủ đúng luật thơ Đường, các câu đối xứng với nhau thật chỉnh vừa đối ý vừa đối thanh ở câu ba và bốn:

Và ở năm, câu sáu:

Căn cứ vào tiếng thứ hai của câu đầu mà ta biết được bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật được làm theo luật bằng hay trắc. Trong bài “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác”, tiếng thứ hai là từ “là” thuộc thanh bằng, do vậy bài thơ được làm theo luật bằng.

Niêm là dính. Đó là sự liên lạc về âm luật của hai câu thơ trong bài thơ đường luật. Người xưa căn cứ vào tiếng thứ hai, tư, sáu trong câu thơ để xác định niêm “Nhất, tam, ngũ bất luận – Nhị, tứ, lục phân minh”. Hai câu thơ niêm với nhau khi chữ thứ hai, tư, sáu của hai câu cùng vần (bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc). Câu một luôn luôn niêm với câu tám, câu hai với câu ba, câu bốn với câu năm, câu sáu với câu bảy. Ví dụ trong bài này, câu 1 có các tiếng thứ hai, tư, sáu gồm “là” – “kiệt” – “phong” (B-T-B) niêm với tiếng hai, tư, sáu ở câu 8 gồm “nhiều” – “hiểm” – “gì” (cũng là B-T-B). Tương tự như thế, ở câu hai có các tiếng: “mỏi”- “thì”- “ở” (T-B-T) niêm với các tiếng ở câ u 3: “khách”- “nhà” – “bốn” (cũng là T-B-T), cứ thế niêm cho đến hết bài. Khi các câu trong một bài thơ đặt sai, không niêm với nhau theo lệ đã định thì gọi là thất niêm.

Thất ngôn bát cú là thể thơ thông dụng trong các thể thơ Đường Luật được các nhà thơ Việt Nam rất ưa chuộng. Đây là hình thức lấy câu thơ bảy chữ làm đơn vị nhịp điệu.

Ra đời từ rất sớm ở Trung Quốc, bắt nguồn từ thơ bảy chữ cổ phong ( thất ngôn cổ thể), đến đời Đường, thơ thất ngôn bát cú phát triển rầm rộ. Trong quá trình giao lưu hội nhập văn hóa một nghìn năm Bắc thuộc, hình thức thơ này đã du nhập vào Việt Nam, được các nhà thơ cổ điển Việt Nam ưa chuộng, tiêu biểu như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan… Sau năm 1930, các nhà thơ hiện đại, nhất là các nhà thơ thuộc trào lưu thơ mới đã làm một cuộc cách mạng về thi ca, phá bỏ những hình thức niêm luật cứng nhắc của thơ cũ nhưng thể thơ thất ngôn bát cú vẫn được sử dụng. Tuy nhiên ngoài một số ít tác phẩm được viết theo thể thất ngôn bát cú, thơ bảy chữ hiện đại đã có sự thay đổi: gồm nhiều thể thơ nối tiếp nhau, cách gieo vần, niêm luật linh hoạt hơn, hình thức này đã tạo ra những tác phẩm dài hơi, tiêu biểu là bản trường ca “Theo chân Bác” của nhà thơ Tố Hữu.

Thể thơ thất ngôn bát cú có bố cục bốn phần, mỗi phần ứng với hai câu đảm nhận những nhiệm vụ cụ thể. Hai câu đề giới thiệu về thời gian, ko gian, sự vật, sự việc. Hai câu thực trình bày, mô tả sự vật, sự việc. Hai câu luận diễn tả suy nghĩ, thái độ, cảm xúc về sự vật, hiện tượng. Hai câu kết khái quát toàn bộ nội dung bài theo hướng mở rộng và nâng cao. Ở một số trường hợp, phần thực và luận có chung nhiệm vụ vừa tả thực vừa luận, ví dụ như hai câu thực và luận trong bài “Qua đèo Ngang” của BHTQ:

Luật bằng trắc là 1 trong những yếu tố quan trọng tạo nên nhịp điệu thơ bảy chữ, nó còn gọi là luật về sự phối thanh giữa các tiếng trong từng câu và các câu trong từng khổ, từng bài. Thanh bằng là thanh huyền và thanh ngang, thanh trắc là thanh hỏi, sắc, ngã, nặng. Trong mỗi câu thơ, sự phát thanh được quy định khá chặt chẽ theo quan điểm “Nhất tam ngũ bất luận”( Các tiếng 1, 3, 5 không xét tới) và “Nhị tứ lục phân minh”( Các tiếng 2, 4, 6 quy định rõ ràng). Quan hệ bằng trắc giữa các câu cũng được quy định chặt chẽ. Nếu dòng trên là bằng mà ứng với dòng dưới là trắc thì gọi là đối, ứng với dòng dưới cũng là bằng hoặc ngược lại thì gọi là niêm với nhau. Trong thơ thất ngôn bát cú, quan hệ bằng trắc giữa các các câu trong mỗi phần đề, thực, luận, kết phải đối nhau; còn 1-8, 2-3, 4-5, 6-7 phải niêm với nhau. Theo quan điểm, ta có thể thấy rõ sự quy định nghiêm ngặt về niêm, luật trong thơ thất ngôn bát cú. Chỉ cần dựa vào tiếng thứ hai của câu mở đầu, ta có thể biết bài được viết theo luật bằng hay trắc, ví dụ:…. Tuy nhiên, trong thơ hiện đại không đòi hỏi niêm luật này.

Vần là một bộ phận của tiếng không kể thanh và phụ âm đầu (nếu có). Sự phối vần là một trong những nguyên tắc của sáng tác thơ, những tiếng có bộ phận vần giống nhau gọi là hiệp vần với nhau. Khác với thơ lục bát, thơ thất ngôn bát cú gieo vần chân, vần được gieo ở cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8.

Ngoài ra, nhịp thơ cũng là một yếu tố quan trọng làm nên nhạc điệu thơ. Cách ngắt nhịp trong thơ không đơn giản là tạo sự ngừng nghỉ trong quá trình đọc mà quan trọng hơn, nó góp phần thể hiện nội dung, ý nghĩa cần biểu đạt. Trong thể loại thơ này, ta có thể ngắt nhịp bốn- ba hoặc ba- bốn nhiều hơn, thông dụng hơn. Tuy nhiên, trong một số tác phẩm, tác giả đã thay đổi cách ngắt nhịp thông thương nhằm phục vụ một ý đồ nghệ thuật nhất định. Ta lấy ví dụ ở bài ” Qua đèo Ngang” của BHTQ:

Cách ngắt nhịp 2/2/3 đã phần nào cho ta thấy được sự heo hắt của cảnh vật cùng sự cô đơn, buồn tủi của con người.

Trong lịch sử hình thành thể thơ thất ngôn bát cú được sách cũ ghi lại và xuất hiện trong các tác phẩm văn chương trong đời Đường. Thể thơ này cũng lại được dùng ở một thời gian khá dài, trong chế độ phong kiến và sử dụng trong việc tuyển chọn nhân tài. Có thể nhận thấy được thể thơ này cũng được dùng phổ biến vào nước ta trong thời kì Bắc thuộc. Thể thơ hấp dẫn những cây bút quý tộc sử dụng.

Có thể nhận thấy được chính cấu trúc bài thơ thất ngôn bát cú gồm 8 câu, người ta nhận thấy được ở mỗi câu 7 chữ. Còn nếu như tiếng thứ hai của câu thứ nhất chính là vẫn bằng thì gọi là thể bằng, còn nếu như là vần trắc thì gọi là thể trắc. Có thể nhận thấy được chính thể thơ cũng đã quy định rất nghiêm ngặt về luật bằng trắc. Trong thơ thất ngôn bát cú thì luật bằng trắc này đã tạo nên một mạng âm thanh tinh xảo, luôn mang được một sự uyển chuyển cân đối để làm lời thơ cứ du dương như một bản tình ca thật da diết, giống như những đợt sóng dâng trào nhưng cứ nhịp nhàng từng đợt từng đợt một. Khi người ta đã có những câu nối vấn đề về luật lệ của luật bằng trắc chính trong từng tiếng ở mỗi câu thơ trong bài. Dễ nhận thấy được chính các tiếng đó là nhất – tam – ngũ còn các tiếng như nhị – tứ – lục phân minh. Bên cạnh đó thì chính trong quá trình sáng tác bằng sự sáng tạo của chính mình, các tác giả lại có giảm đi tính gò bó cũng như sự nghiêm ngặt vốn có của thơ Đường luật cũng đã làm giảm bớt tính gò bó để khiến cho tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng, nhẹ nhàng và sáng tạo chính trong từng câu thơ. Thêm một ví dụng rất rõ được thể hiện chính trong bài “Qua Đèo Ngang” được viết theo thể bằng được thể hiện:

Chúng ta có thể biết ngay về vần cũng như về thể thơ thường có vần bằng được gieo ở tiếng cuối ở chính trong các câu 1-2-4-6-8. Các vần này dường như cũng đã vừa tạo sự liên kết ý nghĩa và độc đáo, chúng lại vừa có tác dụng tạo nên tính nhạc cho thơ càng thấy được sự hấp dẫn trong bài. Điều này còn thể hiện trong bài “Qua Đèo Ngang”, thì chính vẫn được gieo là vần “a” khiến cho câu thơ cứ vang vọng hơn thật lâu.

Thêm nữa đó là thể thơ Đường luật còn có sự tương đồng với nhau về mặt âm thanh ở tiếng thứ 2 chính trong các cặp câu đó là các cặp 1 – 8, 2 – 3, 4 – 5, 6 – 7. Thông qua đây ta nhận thấy được thể thơ Đường luật cũng có một kết cấu chặt chẽ và nhịp nhàng trong âm thanh. Thi phẩm “Qua Đèo Ngang” có câu 1 – 8 giống nhau ở tất cả các tiếng, ngoại trừ tiếng thứ 6 (TTBBTB), còn đối với câu 2-3 giống nhau ở các tiếng 2, 4, 6 (BTB).

Xét về vế đối, người ta cũng nhận thấy được rằng thể thơ có đối ngẫu tương hỗ cũng như đối ngẫu tương phản ở các câu đó chính là 3 – 4, 5 – 6. Xét về mặt cấu trúc của thể thơ thất ngôn bát cú gồm bốn phần rõ ràng. Đối với hai câu đề nêu cảm nghĩ chung về người suy nghĩ về cảnh vật, người ta nhận thấy được hai câu thực cũng được miêu tả chi tiết về cảnh vật, sự việt để có thể làm rõ cho cảm xúc nêu ở hai câu đề. Tiếp đến là đến hai câu luận có nhiệm vụ để có thể bàn luận, từ đây tác giả cũng có thể mở rộng ra được thêm những cảm xúc. Ở phần này cũng thường nêu ý tưởng chính của nhà thơ thể hiện. Tiếp đến chính là ở hai câu kết dùng để khép lại bài thơ đồng thời cũng lại nêu được một sự nhấn mạnh những cảm xúc đã được giãi bày ở các câu thơ trên. Người đọc cũng thấy được với cấu trúc khá chặt chẽ như này như cũng khiến cho tác giả có thể bộc lộ được nguồn cảm hứng sáng tác và một mạch cảm xúc vô cùng mãnh liệt để có thể viết lên, sáng tạo thêm được những sáng tác để đời.

Trong nền văn học dân tộc, làm lên sự phong phú, đồ sộ của kho tàng văn học ấy không chỉ bởi các sáng tác hay của các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, không chỉ bởi các tác phẩm có giá trị về nội dung, nghệ thuật cũng như giá trị thẩm mĩ. Cái làm lên giá trị của một tác phẩm văn chương cũng như góp phần làm cho nền văn học dân tộc thêm phong phú, đồ sộ không thể không kể đến vấn đề về thể loại. Xét riêng trong thơ ca, thể thơ là một nhân tố làm nên nhịp điệu, tạo ra sự hấp dẫn cho một bài thơ, và một trong những thể thơ mà các tác giả thường dùng để sáng tác, đó là thể thơ thất ngôn bát cú đường luật.

Thể thơ Thất ngôn bát cú đường luật là một thể thơ xuất hiện và ra đời ở thời Đường Trung Quốc, trước đây, thể thơ này thường dùng trong thi cử cũng như để tuyển chọn nhân tài cho triều đình. Ngoài ra, các thi vĩ, văn nhân Trung Quốc cũng sử dụng thể thơ này trong nhiều sáng tác thơ văn của mình, thể thơ này đã phát triển và kéo dài trong suốt thời kỳ phong kiến của Trung Quốc. Ở Việt Nam, thể thơ song thất lục bát được du nhập vào nước ta trong quá trình Trung Quốc thực hiện đồng hóa dân tộc ta, đó là khoảng thời gian Bắc thuộc. Tuy luôn chống lại những chính sách đồng hóa, thậm chí đồng hóa ngược trở lại đối với những người thực hiện đồng hóa.

Tuy nhiên, với những yếu tố tốt đẹp được đưa vào nước ta thì cha ông ta vẫn có ý thức tiếp nhận, đặc biệt là tiếp nhận không rập khuôn, hình thức mà là tiếp nhận có sáng tạo. Trong sự tiếp nhận sáng tạo đó có thể thơ song thất lục bát, các tác giả trung đại đã sử dụng thể thơ song thất lục bát vào các sáng tác thơ văn của mình, sáng tạo ra rất nhiều các tác phẩm văn chương có giá trị, không chỉ ở thời điểm bấy giờ mà đến tận ngày nay ta vẫn có thể dễ dàng cảm nhận được những giá trị to lớn, những đóng góp quan trọng đó cho nền văn học dân tộc.

Thể thơ thất ngôn bát cú là thể thơ mà mỗi bài có tám câu và mỗi câu có bảy chữ. Cấu trúc về mặt hình thức này được khái quát ngay trong tên gọi của thể thơ: “Thất ngôn bát cú” trong đó ngôn là chữ, thất ngôn là bảy chữ, “cú” là câu, bát cú có nghĩa là một bài thơ bao gồm tám câu. Thể thơ thất ngôn bát cú gồm hai thể, đó là thể bằng và thể trắc. Cụ thể như sau, nếu tiếng thứ hai của câu thứ nhất là vần bằng thì gọi là thể bằng, là vần trắc thì gọi là thể trắc. Chẳng hạn, bài thơ qua đèo ngang thuộc thể trắc bởi có tiếng thứ hai của câu thứ nhất mang vần trắc:

Qua câu thơ trên, ta có thể thấy tiếng thứ hai của câu thứ nhất là tiếng “tới” cũng tức là vần trắc. Vì vậy mà ta có thể khẳng định đây là bài thơ thuộc thể trắc. Chính cấu tạo bằng trắc của thể thơ song thất lục bát đã tạo ưu thế cho thể thơ này, có chính là nhạc điệu, có khi tinh tế, có khi uyển chuyển cân đối, sự linh hoạt trong nhịp điệu này làm cho lời thơ, bài thơ có sự du dương, như một bản tình ca. Nói về vấn đề quy định của các tiếng bằng trắc trong câu bằng một sự khái quát sau: nhất – tam – ngũ bất luận, nhị – tứ – lục phân minh. Có thể nói thể thơ thất ngôn bát cú là thể thơ rất chặt chẽ về các vần bằng chắc, nếu không tuân thủ theo những quy định của thể thơ thì có thể coi là phá luật.

Xét về bố cục của thể thơ song thất lục bát ta có thể thấy thể thơ này gồm có bốn phần. Trong đó, câu thơ đầu là câu phá đề, đây là hai câu mở đầu của bài, giới thiệu về nội dung mà các tác giả muốn đề cập đến. Câu thơ sau nữa gọi là câu thừa đề, câu này có tác dụng chuyển tiếp vào bài, tức là kế thừa và phát triển những nội dung của hai câu phá đề. Hai câu này được gọi là hai câu đề. Hai câu thực là câu ba và câu bốn, đây là các câu dùng để giải thích, nói rõ hơn về vấn đề cần trình bày. Sau hai câu thực là hai câu luận, đó chính là câu thơ thứ năm và câu thơ thứ sáu có vai trò mở rộng và tiếp tục bàn luận về nội dung của bài thơ. Phần cuối cùng của một bài thơ Thất ngôn bát cú đường luật đó là câu kết, chính là câu thơ thứ bảy và thứ tám của bài thơ, dùng để kết luận, chốt lại vấn đề cần trình bày của bài thơ.Về nhịp điệu của thể thơ song thất lục bát cũng vô cùng uyển chuyển, linh hoạt, có thể là nhịp 4/4; nhịp 2/2/2/2 . Chẳng hạn như:

Như vậy, thể thơ song thất lục bát là thể thơ vốn có nguồn gốc từ nền văn học Trung Quốc, sau đó thông qua quá trình đồng hóa trong một ngàn năm Bắc thuộc thì đã được du nhập vào nước ta. Đây là thể thơ yêu cầu cao về tính quy luật, bằng trắc và là một thể thơ giàu nhịp điệu bởi chính sự linh hoạt của vần, của nhịp thơ.

Trong văn học Việt Nam có biết bao nhiêu là thể thơ hay và chính những thể thơ ấy đã làm nên những thành công cho biết bao nhiêu thi sĩ. Những thể thơ trong kho tàng thơ ca thật sự rất phong phú đặc biệt là thời thơ ca trung đại chúng ta có vay mượn Trung Quốc. Tiêu biểu trong đó có thể thơ thất ngôn bát cú.

Cách sắp xếp các thanh bằng, trắc theo kiểu “Nhất, tam, ngũ bất luận. Nhị, tứ, lục phân minh” và xen kẽ nhau. Tức là nếu tiếng thứ 2 là thanh bằng thì tiếng thứ 4 là thanh trắc, tiếng thứ 6 thanh bằng và dòng tiếp theo thì ngược lại (nếu câu đầu là 2 = bằng, 4 = trắc, 6 = bằng thì câu kế tiếp sẽ là 2 = trắc, 4 = bằng, 6 = trắc). Chẳng hạn như câu thơ trong bài:

“Canh khuya văng vẳng trống canh dồn”

Thanh B…………… T…………. B…………

“Trơ cái hồng nhan với nước non.”

Thanh T…….. B………. T………….

(Tự tình 2 – Hồ Xuân Hương).

Tiếp theo về luật thơ thông thường, thơ thất ngôn bát cú có thể làm theo 2 cách thông dụng:

Thất ngôn bát cú theo Đường luật: Có quy luật nghiêm khắc về Luật, Niêm và Vần và có bố cục rõ ràng.

Thất ngôn bát cú theo Cổ phong: Không theo quy luật rõ ràng, có thể dùng một vần (độc vận) hay nhiều vần (liên vận) nhưng vần vẫn phải thích ứng với quy luật âm thanh, có nhịp bằng trắc xen nhau cho dễ đọc.

Còn một cách khác là theo Hàn luật. Những bài thơ thất ngôn bát cú chữ Nôm thường được gọi là thơ Hàn luật.

Ví dụ như bài thơ tự tình hai của Hồ Xuân Hương thì chúng ta thấy được những cách gieo vần của nó:

Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn.Xuyên ngang mặt đất, rêu từng đám,Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,Mảnh tình san sẻ tí con con.”

Ở đây ta thấy chữ dồn hiệp chữ “non”, “tròn”, “hòn”, “con”. Như vậy ta thấy được đối với một bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn bát cú thường được gieo vần ở vần chân.

Về cấu trúc của bài thơ theo thể thất ngôn bát cú thì chúng ta có bốn phần :đề thực luận kết. Hai câu đề nêu cảm nghĩ chung về người, cảnh vật, hai câu thực miêu tả chi tiết về cảnh, việc, tình để làm rõ cho cảm xúc nêu ở hai câu đề; hai câu luận: bàn luận, mở rộng cảm xúc, thường nêu ý tưởng chính của nhà thơ; hai câu kết: khép lại bài thơ đồng thời nhấn mạnh những cảm xúc đã được giãi bày ở trên.

Qua đây ta đã hiểu thế nào là một bài thơ làm theo thể thất ngôn bát cú, chúng ta có thể thấy rằng chính những luật và cấu trúc kia đã làm nên cái hay cho những bài thơ làm theo thể thơ này.

Thơ Đường luật là một thể thơ có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này đã phát triển mạnh mẽ ở ngay chính quê hương của nó và có sức lan tỏa mạnh mẽ sang các khu vực lân cận, trong đó có Việt Nam. Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc phức tạp được thể hiện ở năm điểm sau: Luật, niêm, vần, đối và bố cục. Về hình thức thơ Đường luật có nhiều loại, tuy nhiên thất ngôn bát cú được coi là một dạng chuẩn, là thể thơ tiêu biểu trong thơ ca trung đại.

Thơ thất ngôn bát cú gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ. Đường luật là luật thơ có từ đời Đường (618- 907) ở Trung Quốc. Vậy tổng thể một bài thất ngôn bát cú gồm 56 chữ.. Có gieo vần (chỉ một vần) ở các chữ cuối của các câu 1, 2,4,6,8, hiệp vần bằng với nhau. Ví dụ như trong bài thơ Qua đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, quy tắc này được thể hiện một cách đặc biệt rõ ràng:

Các từ hiệp vần với nhau là: tà, hoa, nhà, gia, ta. Việc này góp phần tạo nên cho bài thơ sự nhịp nhàng, bớt khô cứng của một thể thơ đòi hỏi niêm luật chặt chẽ.Có phép đối giữa câu 3 với câu 4, câu 5 với câu 6 ( tức bốn câu giữa),đối tức là sự tương phản, cả sự tương đương trong cách dùng từ, cũng có thể thấy điều này rõ ràng nhất qua bài thơ Qua Đèo Ngang:

“Lom khom” đối với “lác đác”, “dưới núi” đối với “bên sông”, “ nhớ nước” đối với “thương nhà”…. Các phép đối rất chỉnh và rõ, kể cả về chữ và âm.Hay trong bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương:

Phép đối giữa các câu cân xứng và rất chỉnh như “Lặn lội” đối với “eo sèo”, “ quãng vắng” đối với “buổi đò đông”…. Thơ Đường mà câu 3 không đối với câu 4, câu 5 không đối với câu 6 thì gọi là “thất đối”

Bên cạnh đó thì thể thơ này cũng có luật bằng trắc rõ ràng, đặc biệt là nguyên tắc niêm. Những câu niêm với nhau tức là những câu có cùng luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Thường một bài thơ thất ngôn bát cú được niêm: câu 1 niêm với câu 8;câu 2 niêm với câu 3;câu 4 niêm với câu 5;câu 6 niêm với câu 7. Vần là những chữ có cách phát âm giống nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ. Trong một bài thơ Đường chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1, 2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là “vần với nhau”. Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn gọi là “vần chính”, những chữ có vần gần giống nhau gọi là “vần thông”. Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các ngoại lệ. Về bố cục, một bài thơ thất ngôn bát cú gồm 4 phần: Đề, thực,luận,kết. Hai cầu đầu tiên,câu một và câu hai là hai câu mở đầu,bắt đầu gợi ra sự việc trong bài. Hai câu thực là hai câu miêu tả, cần đối với nhau về cả thanh và nghĩa. Tiếp đến là hai câu luận, tức suy luận, yêu cầu tương tự như hai câu thực. Và cuối cùng là hai câu kết, khái quát lại sự việc, không cần đối nhau. Trong suốt thời kỳ phong kiến, thể thơ này đã được dùng cho việc thi tuyển nhân tài cho đất nước. Có nguồn gốc từ Trung Quốc, thể thơ này cũng được Việt Nam tiếp thu và sử dụng khá phổ biến, có nhiều bài thơ khá nổi tiếng thuộc thể loại này. Đặc biệt khi Thơ mới xuất hiện, bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng – trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ.

Thể thơ thất ngôn bát cú được hình thành từ thời nhà Đường. Một thời gian dài trong chế độ phong kiến, thể thơ này đã được dùng cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài. Thể thơ này đã được phổ biến ở nước ta vào thời Bắc thuộc và chủ yếu được những cây bút quý tộc sử dụng.

Cấu trúc bài thơ thất ngôn bát cú gồm 8 câu, mỗi câu 7 chữ. Nếu tiếng thứ hai của câu 1 là vẫn bằng thì gọi là thể bằng, là vần trắc thì gọi là thể trắc. Thể thơ quy định rất nghiêm ngặt về luật bằng trắc. Luật bằng trắc này đã tạo nên một mạng âm thanh tinh xảo, uyển chuyển cân đối làm lời thơ cứ du dương như một bản tình ca. Người ta đã có những câu nối vấn đề về luật lệ của bằng trắc trong từng tiếng ở mỗi câu thơ: các tiếng nhất – tam – ngũ bất luận còn các tiếng: nhị – tứ – lục phân minh. Tuy nhiên trong quá trình sáng tác bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng – trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ. Ví dụ trong bài “Qua Đèo Ngang” được viết theo thể:

Về vần, thể thơ thường có vần bằng được gieo ở tiếng cuối các câu 1-2-4-6-8. Vần vừa tạo sự liên kết ý nghĩa vừa có tác dụng tạo nên tính nhạc cho thơ. Ví dụ trong bài “Qua Đèo Ngang”, vẫn được gieo là vần “a”.

Thể thơ còn có sự giống nhau về mặt âm thanh ở tiếng thứ 2 trong các cặp câu: 1 – 8, 2 – 3, 4 – 5, 6 – 7. Chính điều này tạo cho bài thơ một kết cấu chặt chẽ và nhịp nhàng trong âm thanh. Trong bài thơ “Qua Đèo Ngang”: câu 1 – 8 giống nhau ở tất cả các tiếng, trừ tiếng thứ 6 (TTBBTB) câu 2-3 giống nhau ở các tiếng 2, 4, 6 (BTB)…

Về đối, thể thơ có đối ngẫu tương hỗ hoặc đối ngẫu tương phản ở các câu: 3 – 4, 5 – 6. Ở bài thơ “Qua Đèo Ngang” câu 3 – 4 hỗ trợ nhau để bộc lộ sự sống thưa thớt, ít ỏi của con người giữa núi đèo hoang sơ, câu 5-6 cùng bộc lộ nỗi nhớ nước thương nhà của tác giả. Các câu đối cả về từ loại, âm thanh, ý nghĩa.

Cấu trúc của thể thơ thất ngôn bát cú gồm bốn phần: Hai câu đề nêu cảm nghĩ chung về người, cảnh vật, hai câu thực miêu tả chi tiết về cảnh, việc, tình để làm rõ cho cảm xúc nêu ở hai câu đề; hai câu luận: bàn luận, mở rộng cảm xúc, thường nêu ý tưởng chính của nhà thơ; hai câu kết: khép lại bài thơ đồng thời nhấn mạnh những cảm xúc đã được giãi bày ở trên. Cấu trúc như vậy sẽ làm tác giả bộc lộ được tất cả nguồn cảm hứng sáng tác, ngạch cảm xúc mãnh liệt để viết lên những bài thơ bất hủ.

Còn về cách ngắt nhịp của thể thơ, phổ biến là 3 – 4 hoặc 4 – 3 (2 – 2 – 3; 3 – 2 – 2). Cách ngắt nhịp tạo nên một nhịp điệu êm đềm, trôi theo từng dòng cảm xúc của nhà thơ.

Thể thơ thất ngôn bát cú thực sự là một thể tuyệt tác thích hợp để bộc lộ những tình cảm da diết, mãnh liệt đến cháy bỏng đối với quê hương đất nước thiên nhiên. Chính điều đó đã làm tăng vẻ đẹp bình dị của thể thơ. Có những nhà thơ với nguồn cảm hứng mênh mông vô tận đã vượt lên trên sự nghiêm ngặt của thể thơ phá vỡ cấu trúc vần, đối để thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Tóm lại, thể thơ thất ngôn bát cú mãi mãi là một trang giấy thơm tho để muôn nhà thơ viết lên những sáng tác nghệ thuật cao quý cho đời sau.

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chiếc Xe Đạp 2 Dàn Ý &Amp; 16 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 8

1. Mở bài

Giới thiệu về chiếc xe đạp

2. Thân bài

a. Lịch sử ra đời:

Xe đạp xuất hiện đầu tiên tại Đức, do Baron Karl von Drais phát minh vào năm 1817

Năm 1839, xe hai bánh được gắn với các thiết bị cơ khí đầu tiên ra đời tại Scotland, đó một người làm thợ rèn sáng tạo

Vào năm 1865, hai người anh em nhà Michaux qua quá trình nghiên cứu đã quyết định lắp thêm bàn đạp vào xe cho bánh xe trước.

Qua bao thời gian, xe đạp ngày càng được cải tiến một cách gọn nhẹ hơn, thuận tiện hơn rất nhiều.

b. Cấu tạo:

Khung xe, hai bánh xe, bàn, trục quay, đạp, xích, dĩa, tay lái, phanh, tay lái, yên xe…

Chất liệu: kim loại như thép, sắt, nhôm,…

c. Phân loại:

Phân loại xe đạp theo công dụng: xe đạp thể thao, xe đạp địa hình, xe đạp mini

Phân loại theo nguyên lý hoạt động có xe đạp thường và xe đạp điện

Ngoài ra còn phân loại theo các hãng xe của các nhà sản xuất cho ra đời

d. Ưu điểm và hạn chế:

+ Ưu điểm:

Thứ nhất, xe đạp giá thành không quá cao, người dùng có mức thu nhập thấp cũng có thể sở hữu cho mình một chiếc mà không cần phải quá phân vân hay chần chừ khi mua.

Thứ hai, đây là phương tiện giúp bảo vệ môi trường tốt nhất, những khói bụi của xe máy, xa hơi khiến ta mệt mỏi nhưng đi trên chiếc xe đạp môi trường sẽ được trong lành hơn rất nhiều.

Thứ ba, xe đạp giúp tiện lợi trong việc di chuyển ở những con đường nhỏ, ngõ ngách mà các phương tiện khác không vào được, ít bị tắc đường ở đô thị hơn.

+ Hạn chế:

Giá thành rẻ nên nó không quá bền, dễ bị hỏng hóc khi va chạm với các phương tiện lớn hơn.

Nếu đi đường xa bằng xe đạp thì rất mệt và tốn nhiều thời gian hơn rất nhiều

Khả năng chuyên chở bị giới hạn.

e. Xe đạp trong đời sống:

Phục vụ chiến tranh

Phương tiện đi lại

3. Kết bài

Khẳng định ý nghĩa và vai trò của xe đạp.

I. Mở bài:

Có thể lựa chọn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng cả hai đều phải tập trung giới thiệu được vấn đề mà đề bài yêu cầu: Thuyết minh về chiếc xe đạp.

II. Thân bài:

* Nguồn gốc, sự ra đời của chiếc xe đạp

Năm 1817, chiếc xe đạp đầu tiên được ra đời bởi một nam tước người Đức có tên là Baron von Drais. Ông đã có ý tưởng từ trước đó về một cỗ máy dùng sức người giúp ông đi nhanh hơn, cụ thể là quanh khu vườn hoàng gia. Và chiếc xe đạp đầu tiên ấy có tên là “Cỗ máy chạy bằng chân”, được làm hoàn toàn từ gỗ. Nó đã giúp ông đi được 13km chỉ trong 1 giờ đồng hồ mà thôi. Cách sử dụng chính là người ngồi lên sẽ dùng chân đẩy về phía sau, bánh xe sẽ đẩy xe lên phía trước. Nhưng chiếc xe này khó giữ được thăng bằng và sau này bị chính phủ cấm.

Năm 1860 – 1870, xe đạp ban đầu đã có thêm bàn đạp ở bánh xe trước, bánh trước cũng lớn hơn bánh sau rất nhiều.

Năm 1885, chiếc xe với hai bánh bằng nhau và khá đầy đủ các bộ phận ra đời. Chiếc xe này chính là nguyên mẫu của chiếc xe đạp ngày nay chúng ta vẫn hay sử dụng.

Sau nhiều năm, một số bộ phận được thay đổi để sử dụng tốt hơn và bền hơn. Cho đến ngày nay, chiếc xe đạp hiện đại đã khá hoàn chỉnh và đảm bảo an toàn.

* Hình dáng và các bộ phận của xe đạp

Tay lái: Tay lái của xe đạp bao gồm có phần tay nắm để lái, phanh và chuông. Tay lái xe đạp thường sẽ là dạng hình đường uốn lượn lên xuống, phần tay lái cong hướng vào phía người lái. Phần phanh thì sẽ có phanh trước và phanh sau. Phía tay trái bao giờ cũng là phanh trước, còn tay phải sẽ là phanh sau. Phanh xe là một phát minh vô cùng tuyệt vời giúp chúng ta làm chủ tốc độ trong quá trình sử dụng điều khiển xe.

Bánh xe: Là 2 vòng tròn lớn để xe lăn đi trên đường. Chiếc bánh xe này sẽ có những nan hoa cố định để bánh xe không bị biến dạng. Ở vành bánh xe chính là lốp xe, bên trong lốp là săm xe được bơm khí vào để bánh xe có thể lăn được trên đường.

Bàn đạp: Đây là nơi mà chân chúng ta sẽ dùng để tác dụng lực lên làm bánh xe quay nhờ có hệ thống xích xe. Bàn đạp thường có hình chữ nhật, bằng một phần ba bàn chân của chúng ta.

Yên xe: Thường có hình như đầu một chú chó vậy. Đây là nơi người lái xe sẽ ngồi lên để có thể đạp. Yên xe thường được bọc một lớp bông và da mềm để ngồi cho thoải mái.

Ngoài ra còn có rất nhiều bộ phận khác như đèn, giỏ xe…

* Các loại xe đạp khác nhau

Đầu tiên là loại xe đạp phổ biến mà chúng ta vẫn thường thấy, các bà các mẹ hay đi. Tay lái cong cong, xe khá là cao.

Xe đạp địa hình: Loại xe này có lốp to, có hệ thống giảm xóc rất tốt, phù hợp để đi trên đường đất đá gồ ghề, đường núi. Tuy nhiên xe hơi nặng và đi hơi lâu.

Xe đi đường dài: Dành cho các bạn dùng để khám phá du lịch dài ngày, hay còn gọi là xe đạp tour.

Hybrid bike: Loại xe này phù hợp đi trong thành phố, có tốc độ cao.

Ngoài ra còn một số loại xe đạp khác như xe đạp gấp, xe đạp tối giản… tùy thuộc vào nhu cầu của người tiêu dùng mà có sự lựa chọn khác nhau.

* Công dụng và cách sử dụng xe đạp

– Công dụng:

Trước hết thì xe đạp là công cụ giúp con người di chuyển thô sơ nhất, đơn giản nhất và dễ sử dụng nhất. Gần như chỉ mất vài ngày luyện tập là đã có thể đi xe đạp được.

Trong thời kỳ công nghiệp hóa khiến môi trường ô nhiễm thì sử dụng xe đạp sẽ không thải khí độc ra môi trường như nhiều loại phương tiện khác. Đồng thời dễ di chuyển ở những thành phố lớn vào giờ cao điểm, giao thông ùn tắc…

Đạp xe là một cách để giúp cho cơ thể khỏe mạnh, giảm lượng mỡ thừa, lượng calo thừa, giúp chúng ta có một vóc dáng đẹp.

– Cách sử dụng: Cách dùng rất đơn giản, chỉ cần ngồi lên yên, đặt chân lên bàn đạp và đạp. Xe sẽ di chuyển về phía trước, khi ta cần phanh lại đã có tay phanh…

* Cách bảo quản, giữ gìn xe đạp

Xe đạp khá nhỏ gọn nên chúng ta có thể cất ở một chỗ có diện tích nhỏ, hoặc có thể tháo ra cất đi nếu chúng ta không sử dụng trong thời gian dài.

Cần chú ý tra dầu cho xích thường xuyên, đồng thời kiểm tra độ căng của hai bánh xe để tránh bị hỏng lốp…

III. Kết bài:

Nêu tình cảm, cảm nghĩ của chính mình về công dụng cũng như lịch sử, hình dáng của xe đạp.

Trong cuộc sống ngày nay có rất nhiều những phương tiện giao thông ra đời để phục vụ cho nhu cầu đi lại của con người. Tất cả những phương tiện như xe đạp, xe máy, ô tô, máy bay, tàu hỏa,… đều rất thuận tiện và dễ sử dụng. Trong đó có một phương tiện được con người phát minh ra đầu tiên và vẫn còn được sử dụng đến ngày nay chính là chiếc xe đạp.

Nói đến xe đạp ai cũng biết rằng đây là một phương tiện giao thông hai bánh. Nguyên lý chuyển động của xe đạp là nhờ vào lực đạp bàn chân của người lái và giữ cho xe thăng bằng bởi định luật bảo toàn mo men quán tính. Đây là một phương tiện giao thông hết sức thân thiện với môi trường sinh thái. Ở nhiều nước có thu nhập đầu người thấp thì xe đạp là phương tiện di chuyển được nhiều người sử dụng đi lại hằng ngày.

Ở những nước phát triển như phương Tây thì xe đạp được dùng cho những mục đích dã ngoại hay thể thao. Tại các nước này người dân cũng được khuyến khích sử dụng xe đạp để di chuyển bằng việc có lối đi riêng dành cho xe đạp. Tại các đô thị cổ như Amsterdam ở Châu Âu thì xe đạp chính là phương tiện di chuyển thông dụng nhất.

Xe đạp lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1790 do bá tước Sivrac sáng chế. Ban đầu nó là một cỗ máy bằng gỗ và không hề có bánh xe để điều khiển lái được. Vì vậy lúc này khi muốn chuyển hướng sẽ phải lắc mạnh phần trước của xe. Đến năm 1813 đã có bước ngoặt trong công cuộc phát triển xe đạp.

Nam tước người Đức Karl Friedrich Drais đã cải tiến phần bánh trước để có thể thay đổi hướng xe được. Chiếc xe này bấy giờ được đặt tên là Draisienne và được nhiều người ưa chuộng. Tiếp đó hai anh em Ernest Michaux và Pierre Michaux đã có sáng kiến là lắp thêm pê đan cho bánh trước. Năm 1865 chiếc xe đạp được lắp thêm một chỗ để chân.

Sáng kiến này được mô phỏng theo tay quay của máy quay tay. Tác dụng của pê đan bánh trước là làm cho bánh trước có kích thước lớn hơn bánh sau. Nhờ vậy quãng đường đi trong mỗi vòng đạp sẽ dài hơn. Từ khi phát minh chiếc xe đạp vốn được làm bằng gỗ nhưng đến năm 1869 thì chúng được làm bằng thép.

Đến năm 1879 xe đạp mới được thiết kế phần dây xích để truyền động tới bánh sau bởi ông Lawson. Dần dần theo thời gian chiếc xe đạp đã được cải tiến những chi tiết nhỏ nhặt để trở nên tiện lợi và dễ sử dụng nhất. Đến năm 1920 những chiếc xe đạp được áp dụng các hợp kim nhẹ để giảm trọng lượng của xe. Năm 1973 tại California chính thức chế tạo xe địa hình.

Cấu tạo của xe đạp bao gồm hệ thống chuyên chở, hệ thống chuyển động và hệ thống điều khiển. Đầu tiên phải kể đến hệ thống chuyển động. Bao gồm có khung xe, hai bánh xe, bàn đạp, ổ bi giữa, trục giữa, đĩa ổ líp, dây xích và hai trục. Để sử dụng xe đạp thì khi đi người lái xe ngồi lên yên xe.

Hai tay đưa về phía trước cầm ghi đông, còn chân chuyển động đạp bàn đạp làm trục xe chuyển động. Lúc này đĩa sẽ chuyển động kéo theo dây xích, khiến cho ô líp và bánh sau quay để tạo lực đẩy cho xe đi về phía trước.

Ghi đông xe có hai tay cầm có thể dễ dàng điều khiển qua trái, phải nhờ ổ bi được gắn ở cổ xe. Điều này giúp cho người lái có thể điều khiển hướng đi theo ý muốn của mình.

Phần ghi đông của xe không chỉ là tay cầm lái mà còn là điểm tựa để người đi giữ thăng bằng. Về phần phanh xe hoạt động theo nguyên lý khi người lái bóp phanh, má phanh sẽ ép vào hai bên vành xe tạo lực ma sát để giảm tốc độ chuyển động của bánh xe. Nhờ vậy có thể khiến xe chạy chậm lại hoặc dừng hẳn.

Ngoài ra còn có hệ thống chuyên chở bao gồm giỏ đựng hàng, yên xe và bộ phận đèo hàng. Ngoài những bộ phận này ra trên xe đạp còn có bộ phận dùng để chắn bùn cho cả bánh sau và bánh trước.

Ở phần xích xe còn có hộp bảo vệ che chắn phần xích xe chuyển động để tránh việc dễ bị dị vật bên ngoài tác động vào. Xe còn được trang bị thêm nhiều những điểm nhỏ nhặt nhưng hết sức cần thiết khác như chuông được lắp ở phía tay cầm, đèn tín hiệu lắp ở sau xe,…

Đối với những quãng đường ngắn như đi trong thành phố nhỏ hay trong làng thì xe đạp là một phương tiện giao thông rất thuận lợi. Vì xe đạp chuyển động bằng sức của con người nên không hề có khí thải gây ô nhiễm môi trường. Người đi xe chỉ cần bỏ ra một chút sức lực để có những quãng đường đi nhẹ nhàng mà êm ái. Không những thế đạp xe còn chính là một phương thức hữu hiệu để rèn luyện cơ thể.

Chiếc xe đạp còn đóng vai trò là một phương tiện hữu ích trong công cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chiếc xe đạp là phương tiện vận chuyển lương thực, vũ khí qua những tuyến đường trường sơn. Góp phần trong công cuộc quét sạch bè lũ xâm lược ra khỏi đất nước ta.

Ngày nay khi đất nước hòa bình, chiếc xe đạp chính là phương tiện đưa những em học sinh đi trên con đường đến với tri thức. Chiếc xe đạp ngày nay vẫn góp một phần đi cùng với những mầm non đất nước và mọi tầng lớp trong xã hội. Dù cho ngày nay có rất nhiều loại phương tiện hiện đại và đi nhanh hơn thế nhưng những chiếc xe đạp vẫn không hề hết được ưa chuộng. Nhất là trong thời đại ô nhiễm môi trường như ngày nay thì việc sử dụng xe đạp là một hành động được khuyến khích. Không chỉ mang đến sức khỏe cho người đi mà nó còn góp phần nào trong việc bảo vệ môi trường.

Chiếc xe đạp còn gắn bó với biết bao thế hệ học sinh, là biểu tượng gắn liền với tà áo dài ngây thơ. Nếu ai đã mang trong mình những kí ức thời học sinh với bao lần cùng bạn bè tíu tít trên những chiếc xe đạp về thì quả thật hạnh phúc. Tiếng tăm xe đạp khi thả dốc như những dòng kí ức trong ta, không bao giờ bị lãng quên.

Từ khi ra đời cho tới nay, chiếc xe đạp cùng từng ngày biến đổi theo sự sáng tạo và trí tưởng tượng của con người, nhưng nhìn chung nó đều gồm các phần chính sau: hệ thống truyền lực, hệ thống chuyển động, hệ thống lái, hệ thống phanh, khung chịu lực và yên xe. Hệ thống truyền lực của tất cả các xe đạp đều gồm bàn đạp, đùi, trục giữa, đĩa, xích là líp. Trong hệ thống chuyển động của xe đạp có bánh xe cả trước và sau bao gồm trục, moay – ơ, nan hoa, vành, săm lốp. Ở đây, lốp xe được đặc biệt quan tâm.

Lốp xe được coi là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong bất cứ một chiếc xe đạp nào bởi nó ảnh hưởng đến sự an toàn cũng như khả năng tăng, giảm tốc độ trên bất kỳ một địa hình nào. Tùy từng kiểu dáng, hãng sản xuất mà lốp xe có kích thước khác nhau nhưng hầu hết các thông số về kích cỡ đều được in nổi trên bề mặt lốp. Bên cạnh kích thước, ta có thể phân biệt lốp xe ở loại có săm hay không săm. Lốp không săm thường rẻ, phù hợp với túi tiền của phần đông mọi người đi xe đạp. Lốp có săm giá thành cao hơn nhưng lại giúp người đi xe có thể giảm trọng lượng và lực cản để tăng tốc nhanh hơn. Độ rộng hẹp của lốp có thể thay đổi nhưng kích thước vành luôn được cố định.

Cùng với hệ thống truyền lực, hệ thống chuyển động là hệ thống phanh: tay lái, cổ phuốc. Hệ thống này giúp con người có thể điều khiển xe đạp một cách nhẹ nhàng, linh hoạt và dễ dàng nhất trong mỗi lần chuyển hướng. Hệ thống phanh lại giúp con người làm chủ được tốc độ để có thể giữ được độ an toàn mỗi khi tham gia điều khiển chiếc xe.

Rất nhiều người chúng ta quan tâm và yêu thích xe đạp, song không phải ai cũng biết hết những điều thú vị về nó. Nhiều bài báo đã giới thiệu chiếc xe đạp dài nhất thế giới tên là “Tandem” gây nhiều tò mò với chiều dài 20 mét và có đến tận 35 người có thể cùng lúc ngồi trên nó. Giải đua xe đạp là một trong những giải đấu thể thao hàng đầu thu hút sự quan tâm của rất nhiều người. Nhưng đa phần ta chỉ thấy các cuộc đua của đàn ông mà phải đến năm 1984, lần đầu tiên phụ nữ được tham gia các môn đua xe đạp tại Thế vận hội.

Với công năng hữu ích cũng như những giá trị thú vị khác, dù trong cuộc sống đã xuất hiện thêm nhiều phương tiện giao thông tiện lợi, nhanh chóng và tiết kiệm sức hơn nhưng xe đạp vẫn đóng một vai trò quan trọng, được sử dụng phổ biến và là lựa chọn hàng đầu của rất nhiều người.

Xe đạp gần gũi quen thuộc và là phương tiện giao thông cấu tạo đơn giản, dễ điều khiển… thuận tiện cho việc di chuyển trong quãng đường ngắn.

Cấu tạo của xe đạp gồm hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở.Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, dây xích, đĩa ổ líp,…. Khi đi người ta ngồi lên yên xe, tay cầm ghi đông, chân đạp bàn đạp làm cho trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo theo dây xích, làm quay ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ổ líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn hai lần số răng cưa của ổ líp. Ổ líp chuyển động làm bánh xe chuyển động theo.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm có thể xoay dễ dàng. Ghi đông vừa là tay lái, vừa để người đi xe nắm chắc giữ thăng bằng. Bộ phanh (thắng) gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh. Khi bóp tay phanh, má phanh ép vào hai bên vành xe, tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chạy chậm hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi xe đạp có thể chạy nhanh hay chậm tùy ý.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, bộ phận đèo hàng hoặc giỏ đựng hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Giỏ đựng hàng gắn ở phía đầu xe, dựa trên trục bánh trước. Một số bộ phận phụ như cắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước, bộ phận chắn xích, chuông,…

Xe đạp phương tiện giao thông tiện lợi trên quãng đường ngắn từ dăm cây số đến vài chục cây số như đi trong làng hay trong thành phố nhỏ. Xe đạp chuyển động bằng sức người nên không gây ô nhiễm môi trường. Người đi xe đạp chỉ cần sử dụng một lực nhỏ nhưng đi được một đoạn đường dài. Đi xe đạp cũng giúp vận động cơ thể tốt cho sức khỏe.

Trong kháng chiến chống Mỹ, chiếc xe đạp cùng lực lượng thanh niên xung phong vận chuyển lương thực, vũ khí trên tuyến đường Trường Sơn, góp phần quét sạch quân xâm lược Mỹ ra khỏi bờ cõi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Cuộc sống hiện đại chiếc xe đạp đang dần bị thay thế nhưng trong tương lai người dân sẽ sử dụng xe đạp lại nhiều để giảm thiểu tình trạng ô nhiễm, xe đạp vẫn mãi là phương tiện di chuyển an toàn, tiện lợi và dễ sử dụng nhất.

Cuộc sống ngày càng hiện đại hơn. Những cuộc cách mạng khoa học đã từng bước nâng đời sống con người lên tầm cao mới. Một trong những phát minh vĩ đại không thể không nhắc tới của toàn nhân loại là xe đạp. Đó là phương tiện quen thuộc trong giao thông.

Chiếc xe đạp đầu tiên ra mắt năm 1817 bởi Baron von. Chiếc xe này phải dùng đến lực của hai bàn chân chứ không có bánh như ngày nay. Bánh xe ở đằng trước rất to có tác dụng giúp việc dừng lại dễ dàng hơn. Đến năm 1879, một người nước Anh đã sáng tạo ra xích để truyền lực cho bánh sau giúp xe lăn bánh. Năm 1885, J.K.Sartley cải tiến hai bánh xe cùng kích cỡ và thêm khung xe thép. Năm 1887 John Boyd Dunlop tiếp tục cải tiến bánh xe bằng cách thêm ống hơi cho cao su vào bánh để xe chạy êm hơn. Sau đó, người ta còn khiến cho bánh xe có thể tháo lắp linh hoạt. Năm 1920 xe đạp sử dụng hợp kim nhẹ, xe nhẹ đi đáng kể. Qua thời gian, người ta dần cải tiến xe đạp và cho ra nhiều chức năng, lợi thế hơn. Hiện nay xe đạp có mặt trên thị trường với đa dạng mẫu mã, mục đích sử dụng và kích thước như: xe thiết kế cho phụ nữ, đàn ông, trẻ con, xe đua, xe leo núi…

Xe đạp được cấu tạo bởi nhiều bộ phận. Quan trọng là hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở. Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa, ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước sau. Khi đi, ta ngồi lên xe, chân đạp bàn đạp làm trục xe chuyển động, đĩa chuyển động theo kéo dây xích làm ổ líp và bánh sau chuyển động, tạo lực đẩy để xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn và nhiều răng cưa. Ổ líp chuyển động 2 vòng thì đĩa mới chuyển động một vòng. Bánh xe hình tròn, có nhiều thanh sắt được ghép chụm lại ở tâm bánh gọi là vành. Đường kính bánh xe được thiết kế tùy theo đối tượng, mục đích sử dụng nhưng lớn gấp nhiều lần ổ líp. Ban đầu, bánh xe chỉ làm bằng gỗ, khi chạy xe bị xóc. Dần dần người ta dùng cao su, lốp ở ngoài, săm ở trong, khi bơm đủ hơi, có lực đàn hồi, xe giảm xóc.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm xoay đủ 180 độ trái phái, có ổ bi, nhờ vậy xe được lái đi theo ý muốn dễ dàng. Phanh xe gồm tay phanh, dây phanh lắp ở hai đầu tay cầm, điều khiển tốc độ nhanh chậm. Ghi đông vừa là tay lái, vừa giúp người lái giữ thăng bằng.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe và dàn đèo hàng hoặc giỏ đựng. Yên xe lắp ở trên khung xe thường bọc da, là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng lắp ở phía sau yên, dựa trên trục bánh xe sau, kích thước đa dạng. Cũng có chiếc xe lắp bộ phận này ở phía trước, dựa trên trục bánh xe trước.

Ngoài các bộ phận chính như trên, xe đạp còn có cái chắn xích và hai chắn bùn, chuông báo ở tay cầm để xin đường, đèn lắp ở bánh xe. Khi trời tối, đạp xe tạo ra nhiệt, nhiệt chuyển hóa thành điện năng làm đèn sáng có tác dụng soi đường. Xe đạp có thể lắp giỏi hoặc không. Giỏ xe được làm bằng nhiều chất liệu, màu sắc phong phú dùng đựng hoặc tăng vẻ đẹp cho xe.

Xã hội phát triển cũng kéo theo sự phát triển của các loại phương tiện giao thông. Nào là xe máy, ô tô, máy bay, tàu hỏa,… Nhưng gần gũi và thân thương nhất với nhiều lớp thế hệ chính là chiếc xe đạp. Xe đạp đã đi qua tuổi thơ của nhiều người và vẫn luôn hiện hữu trên đường phố ngày nay như một phương tiện không thể thiếu.

Xe đạp xuất hiện đầu tiên tại Paris và được phát minh bởi một nam tước người Đức. Chiếc xe “tổ tiên” này được làm từ gỗ và đã được chỉnh sửa rất nhiều để có thể trở nên tiện dụng như ngày hôm nay. Xe đạp cũng gồm nhiều loại như xe đạp thường, xe đua, xe đổ đèo,… tùy vào mục đích sử dụng của từng loại.

Xe đạp là loại phương tiện giao thông xuất hiện không quá sớm nhưng lại là cơ sở cho sự ra đời của xe máy và ô tô. Xe đạp có hệ thống điều khiển gồm ghi đông, tay lái giúp ta chuyển hướng đi của xe và bộ phanh để dừng xe lại khi đang di chuyển. Phía trước tay lái thường có giỏ xe, rất thuận tiện để đựng đồ khi cần thiết. Vì thế mà các mẹ, các bà hay dùng xe đạp đi chợ để có thể giảm bớt sức lực mang xách. Để mang lại sự thoải mái cho người điều khiển, xe đạp được lắp một yên vừa với một người ngồi, phần phía trên bánh sau được lắp một giá đèo để có thể chở người hoặc vật kích cỡ to đi cùng. Phần giá đèo này thường được làm bằng kim loại, ngồi có thể hơi đau nên người ta hay lắp thêm một đệm êm để được thoải mái hơn.

Xe gồm có hai bánh xe được gắn vào cùng một khung, có bánh trước và bánh sau. Thuở sơ khai, bánh trước thường rất lớn và bánh sau thì nhỏ với pê đan, hay là bàn đạp, gắn ở bánh trước. Và sau nhiều lần cải tiến, sửa chữa để phù hợp hơn thì xe đạp hiện nay vẫn có hai bánh nhưng kích thước hai bánh bằng nhau và bàn đạp được đặt ở khoảng giữa hai bánh, gắn liền với bộ nhông xích. Khi ta dùng lực của chân để làm cho pê đan quay thì vòng xích cũng trượt theo các mắt xích mà quay đều, kéo theo đó là bánh xe cũng quay giúp cho xe di chuyển về phía trước. Phần quan trọng nhất của một xe đạp là phần khung xe. Phần khung này thường được làm bằng kim loại chắc chắn, khác với trước kia làm bằng gỗ, có thể bị mục ruỗng. Ngày nay, với sự hỗ trợ của máy tính thì phần khung này đã được thiết kế tỉ mỉ, có độ chính xác cao hơn và sự ra đời của các vật liệu không gỉ, ít gỉ cũng khiến cho chất lượng sử dụng được lâu bền hơn. Bên cạnh đó thì các loại xe chuyên dụng cũng ra đời và ngày càng thuận tiện hơn cho mọi loại địa hình.

Di chuyển trên phố xá không bao giờ là dễ dàng, và các nhà thiết kế cũng đã tạo ra nhiều bộ phận phụ khác cho xe đạp để việc đi lại được an toàn hơn. Đằng sau và trước xe thường được gắn đèn tín hiệu để báo hiệu cho xe khác khi di chuyển trong đêm tối. Xe cũng được gắn một chuông để báo hiệu mỗi khi chuyển hướng. Vào những ngày trời mưa, đi xe thường bị bắn bùn nước nên xe đạp được trang bị thêm hệ thống chắn bùn để giảm thiểu lượng bùn đất bắn lên xe và người di chuyển.

Không sử dụng động cơ như xe máy, ô tô nên đôi khi, đi xe đạp sẽ tốn nhiều công sức hơn, đặc biệt là với những quãng đường dài. Tuy nhiên, xe đạp lại có rất nhiều công dụng. Thứ nhất là gọn nhẹ, dễ mang, thậm chí là vác chứ không cồng kềnh như xe máy, ô tô. Vì không sử dụng máy nên khi đi trời mưa, ta sẽ không phải lo lắng vì chết máy. Quan trọng hơn, đây là phương tiện giao thông rất an toàn với môi trường. Vì hoàn toàn sử dụng lực chân của con người nên xe không sử dụng các chất như xăng, dầu, những loại tài nguyên đang dần cạn kiệt và khan hiếm. Xe đạp cũng không thải ra lượng khí thải nào khi di chuyển. Và vì trọng lượng nhẹ hơn nhiều so với các loại phương tiện khác nên xe đạp không gây hỏng đường, lún đường và dễ điều khiển hơn. Để xe có tuổi thọ lâu thì người sử dụng cần thường xuyên lau chùi sạch sẽ, kiểm tra xem xe có bị rít không để tra thêm dầu, và cũng cần trang bị cho xe hệ thống phanh chắn để việc di chuyển được an toàn hơn, đặc biệt là khi đi lại ở những con đường dốc và ngoằn ngoèo.

Trong cuộc sống sinh hoạt ngày nay, ngày càng xuất hiện nhiều những loại phương tiện giao thông đi lại thuận tiện, dễ sử dụng và phục vụ được cho những nhu cầu đi lại của con người như: Ô tô, xe máy, máy bay, tàu hỏa… Nhưng tôi vẫn đặc biệt yêu thích loại xe xuất hiện từ rất sớm, gọn nhẹ và có thể phục vụ hữu ích cho việc đi lại, đó chính là chiếc xe đạp-một vận dụng quen thuộc mà cũng hết sức quan trọng.

Xe đạp xuất hiện đầu tiên ở Châu Âu và được nhập vào nước ta vào thế kỉ XX. Xe đạp là phương tiện chuyển động bằng sức người, cấu tạo đơn giản, dễ điều khiển… rất thuận lợi cho việc đi lại. Năm 1790, lần đầu tiên xuất hiện xe đạp bắt đầu với cái célérifère, do bá tước Sivrac sáng chế. Nó là một cái máy bằng gỗ,không có bánh xe để lái; việc chuyển hướng đòi hỏi phải lắc mạnh phần trước của xe. Tuy nhiên vào năm 1849, có thể một thợ cơ khí Đức là Heinrich Fischer đã sáng chế ra pê đan trước hai anh em Michaux. Pêđan ở bánh trước khiến cho bánh trước có kích thước lớn (lớn hơn bánh sau) để tăng quãng đường đi trong mỗi vòng đạp. Cải tiến này đã mang lại tên gọi mới cho thiết bị, bicycle (xe đạp). Tại Việt Nam, xe đạp hiện đang bị thay thế dần bởi xe máy tại các đô thị lớn. Nhưng tại các vùng nông thôn, xe đạp vẫn còn là một phương tiện giao thông được nhiều người chọn lựa.

Xe đạp có cấu tạo gồm: hệ thống chuyển động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở. Hệ thống chuyển động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước, sau. Khi đi người ta ngồi lên yên xe, tay cầm ghi đông, chân đạp bàn đạp làm cho trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo theo dây xích, làm quay ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm có thể xoay qua phải, qua trái dễ dàng nhờ cổ xe có ổ bi, nhằm lái cho bánh xe trước đi theo ý muốn. Ghi đông vừa là tay lái, vừa để người đi xe nắm chắc thăng bằng. Bộ phận phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh. Khi bóp tay phanh, má phanh ép vào hai bên vành xe, tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chạy chậm hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phận phanh mà người đi xe đạp có thể chạy nhanh hay chạy chậm tùy ý.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, bộ phận đèo hàng hoặc giỏ đựng hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng lắp ở phía sau yên xe dựa trên trục của bánh xe sau, có thể chở được hàng tạ. Giỏ đựng hàng gắn ở phía đầu xe dựa trên trục bánh trước.

Ngoài các bộ phận như trên, xe đạp còn có bộ phận chắn bùn lắp trên bánh xe sau và trước, các bộ phận chắn xích che phía trên xích, có đèn lấy nguồn điện từ đi-na-mô lắp ở trước càng xe, có đèn tín hiệu lắp ở phía sau xe, có chuông lắp ở gần phía tay cầm để xin đường lúc cần thiết.

Xe đạp là phương tiện giao thông rất tiện lợi trên quãng đường ngắn như đi trong làng hay trong thành phố nhỏ. Xe đạp chuyển động bằng sức người nên không gây ô nhiễm môi trường. Người đi xe đạp chỉ cần sử dụng một lượng nhỏ công sức của mình nhưng đi được một đoạn rất dài. Đi xe đạp cũng là một cách vận động cơ thể rất có ích như tập thể dục, thể thao.

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ chiếc xe đạp là phương tiện quan trọng, góp phần vận chuyển lương thực vũ khí lên tuyến đường trường sơn quét sạch bọn xâm lược ra khỏi bờ cõi thống nhất đất nước. Ngày nay chiếc xe đạp là phương tiện rất thuận tiện cho mọi tầng lớp trong xã hội, nhất là các em học sinh ngày nay đi lại trên con đường đến với trí thức.

Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển đã cho ra đời nhiều loại phương tiện giúp việc đi lại, di chuyển của con người trở nên dễ dàng, thuận tiện hơn. Trong số đó, phương tiện gần gũi nhất mà hầu như bất cứ ai cũng có đó là chiếc xe đạp. Xe đạp có nguồn gốc từ châu Âu. Qua nhiều lần cải tiến, chúng ta có được chiếc xe đạp hoàn chỉnh như ngày hôm nay. Xe đạp bắt đầu du nhập vào Việt Nam khoảng đầu thế kỉ 20. Từ đó đến nay, nó đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của chúng ta.

Cấu tạo của xe đạp gồm 3 phần chính là hệ thống điều khiển, hệ thống chuyển động và hệ thống chuyên chở. Hệ thống điều khiển gồm có ghi đông và phanh xe. Ghi đông có hình dáng đặc biệt giống như số 3. Ghi đông vừa là tay lái vừa giúp chúng ta giữ vững thăng bằng. Nhờ có ghi đông, chúng ta có thể điều khiển xe quẹo trái, quẹo phải theo ý muốn.

Phanh xe có nhiệm vụ làm cho xe đi chậm lại hay dừng hẳn nếu cần thiết. Hệ thống chuyển động gồm có khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ líp, ổ bi, đĩa, bánh xe. Khung xe như xương sống của xe, thường làm bằng kim loại. Khi ngồi trên yên xe, chúng ta đặt hai chân vào bàn đạp, tác dụng một lực vào bàn đạp. Bàn đạp quay làm cho bánh xe di chuyển. Đường kính của đĩa răng cưa lớn hơn ổ líp, số răng cưa cũng nhiều hơn gấp đôi.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, giỏ hàng phía trước và giá đèo hàng phía sau. Yên xe là chỗ ngồi của người lái xe, có thể điều khiển tùy vào chiều cao mỗi người. Giỏ hàng và giá đèo hàng có thể chuyên chở một khối lượng từ 3-10 kg. Bên cạnh đó còn có một số bộ phận phụ như hệ thống chắn bùn, chuông xe và đèn tín hiệu đặc biệt hữu ích khi di chuyển vào ban đêm.

Xe đạp là loại phương tiện vô cùng hữu ích trong cuộc sống của chúng ta. Xe đạp sẽ là lựa chọn tối ưu khi ta di chuyển với khoảng cách gần hay những nơi đường chật, hẹp, nhiều ngóc ngách nhỏ. Bên cạnh đó, xe đạp còn thích hợp khi đi dã ngoại, tập thể dục rèn luyện sức khỏe. Nhiều chuyên gia đã chỉ ra những ích lợi không ngờ khi chúng ta chăm chỉ đi xe đạp.

Đi xe đạp thường xuyên sẽ có hiệu quả trong việc hình thành các cơ, đốt cháy calo giúp cơ thể săn chắc, giúp các khớp khỏe mạnh, cải thiện chức năng tim phổi. Bên cạnh việc rèn luyện thể chất, xe đạp còn giúp cải thiện sức khỏe tâm lý. Đạp xe là một hoạt động giải trí bổ ích mà không mất tiền, tinh thần được thư thái, luôn cảm thấy vui vẻ và sống chan hòa hơn.

Hiện nay, khi ô nhiễm môi trường đang là vấn đề nóng bỏng toàn cầu, xe đạp càng có ý nghĩa hơn khi góp phần bảo vệ môi trường vì không thải ra khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính. Các nước phát triển đều khuyến khích người dân đạp xe để giữ cho không khí trong lành hơn.

Trong thời chiến, xe đạp là phương tiện đắc lực giúp chúng ta vận chuyển lương thực, thuốc men, vũ khí, đạn dược cho tiền tuyến xa xôi. Những chiếc xe đạp cùng con người rong ruổi trên khắp các nẻo đường đất nước, từ đồng bằng lên miền núi, vượt qua những cánh rừng rộng lớn, những ngọn núi cao hiểm trở.

Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển công nghệ ngày một tiên tiến hơn, ngày càng có rất nhiều những phương tiện để giúp cho việc đi lại của chúng ta. Đó là xe máy xe đạp ô tô và cả máy bay nữa. Thế nhưng đối với rất nhiều người hiện nay thì một chiếc xe đạp để có thể đi lại cũng không thể thiếu được. Chiếc xe đạp đã trải qua một thời gian khá dài nhưng nó vẫn giữ nguyên giá trị của nó đối với tất cả mọi người.

Vậy chiếc xe đạp được bắt nguồn từ đâu? Xe đạp thì rất nhiều người biết nhưng nếu hỏi nó được bắt nguồn từ đâu thì không mấy ai hiểu rõ. Chiếc xe đạp được phát minh ra ở Châu Âu và được du nhập đến nước ta vào đầu khoảng thế kỉ hai mươi. Xe đạp là phương tiện giao thông chuyển động bằng sức người cấu tạo đơn giản dễ điều khiển và rất thuận lợi cho chúng ta trong việc đi lại. Nó đã gắn liền với con người rất nhiều từ những năm tháng kháng chiến nhưng bây giờ xe đạp không còn phổ biến ở những thành phố lớn nữa. Nó đã bị nhấn chìm bởi các thiết bị hiện đại các phát minh mới hơn so với xe đạp.

Xe đạp là một phương tiện giao thông hai bánh và là một dụng cụ thể thao rất phổ biến. Đa sô xe đạp chuyển động nhờ vào lực đạp của người điều khiển, và giữ thăng bằng nhờ luật bảo toàn mô men quán tính. Xe đạp được coi là phương tiện thân thiện với môi trường sinh thái. Nó được sử dụng phổ biến ở rất nhiều nước có thu nhập bình quân đầu người thấp được sử dụng là phương tiện giao thông chính. Ở nhiều nước phương tây thì xe đạp không được sử dụng nhiều trong việc đi lại nhưng nó lại được sử dụng cho các hoạt động vui chơi thể thao hay đi dã ngoại. Việc sử dụng xe đạp được khuyến khích ở rất nhiều nước bởi nó rất hợp với môi trường. Phương tiện này cũng rất thích hợp cho các đường phố nhỏ hẹp mà các loại phương tiện khác không thể nào vào được như các phố cổ có kiến trúc xưa kia.

Cấu tạo của xe đạp gồ có hệ thống điều khiển và chuyên chở. Hệ thống xe gồm khung xe bàn đạp trục ở giữa dây xích đĩa ổ líp hai trục ổ bi và hai bánh trước sao. Khi đi người ta ngồi lên trên yên xe tay cầm ghi đông chân đạp bàn đạp cho trục xe chuyển động đĩa chuyển động kéo theo dây xích cũng chuyển động làm quay ổ líp và bánh sau tạo lực cho xe chuyển động đẩy xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn so với ổ líp, số răng cưa cũng nhiều hơn gấp đôi so với răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng rồi thì ổ líp đã chuyển động được hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động là bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 750mm, gấp mười lần so với đường kính ổ líp. Như vậy ổ líp quay được một vòng thì bánh xe lăn được một quãng đường dài. Ổ líp sẽ quay làm cho xe chạy nhanh về phía trước.

Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn so với ổ líp, số răng cưa cũng nhiều hơn gấp đôi so với răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng rồi thì ổ líp đã chuyển động được hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động là bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 750mm, gấp mười lần so với đường kính ổ líp. Như vậy ổ líp quay được một vòng thì bánh xe lăn được một quãng đường dài. Ổ líp sẽ quay làm cho xe chạy nhanh về phía trước.

Hệ thống điều khiển gồm gi đông có hai tay cầm có thể quay qua trái và qua phải dễ dàng nhờ cổ xe có ổ bi nhằm lái cho bánh trước đi theo ý muốn. Gi đông vừa là tay lái vừa để người đi xe nắm chắc giữ thăng bằng. Bộ phanh gồm thắng phanh bóp phanh càng mạnh thì sức ép xuống càng nhanh khiến cho má phanh ép vào hai bên bánh xe tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chuyển động chậm lại hoặc đứng hẳn khi cần thiết.

Nhờ có bộ phận phanh mà người đi xe có thể đi nhanh hoặc đi chậm khi cần thiết tùy vào từng trường hợp. Hệ thống chuyên chở gồm yên xe bộ phận đèo hàng hoặc chở giỏ hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe tùy vào từng chiều cao của mỗi người mà yên xe được chỉnh cao thấp khác nhau. Dàn đèo hàng lắp ở phía sau yên dựa trên trục bánh xe sau có thể chở được cả hàng tạ, giỏ đựng hàng được gắn thêm phía đầu xe dựa trên trục bánh trước.

Hiện nay ở các thành phố lớn số lượng xe máy quá nhiều khiến cho ách tắc giao thông lại gây ô nhiễm môi trường. Trong tương lai khi phương tiện giao thông công cộng phát triển rộng rãi thì xe đạp vẫn là một phương tiện cá nhân không thể thiếu vừa sạch sẽ lại tiện lợi.

Một thời xe đạp là phương tiện giao thông phần lớn của người Việt Nam. Xe đạp là phương tiện giản tiện chuyển động nhờ sức người.

Xe đạp do nhiều bộ phận tạo thành, chủ yếu là hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở. Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa, ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước sau. Người đi xe đạp ngồi lên xe, chân đạp bàn đạp làm trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo dây xích làm chuyển động ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước.

Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ổ líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn 2 lần số răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng thì ổ líp chuyển động hơn 2 vòng. ổ líp chuyển động làm bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 700mm, gấp 10 lần đường kính ổ líp, như vậy ổ líp quay một vòng thì bánh xe đã lăn được một quãng dài. ổ líp quay nhanh sẽ làm xe chạy nhanh.

Lúc đầu bánh xe làm bằng gỗ, khi chạy sẽ xóc rất dữ. Ngày nay người ta làm bánh xe bằng cao su, lốp ở ngoài, săm ở trong, khi bơm đủ hơi, có lực đàn hồi, xe chạy ít xóc hẳn.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm xoay được qua cổ xe có ổ bi nhằm lái cho bánh xe trước đi theo phương hướng mong muốn. Hai cái phanh lắp hai đầu tay cầm, điều khiển cho tốc độ xe khi đang chạy nhanh có thể chậm lại. Hai tay cầm ở ghi đông vừa là tay lái, vừa là chỗ nắm để giữ cho người đi xe ngồi vững trên xe.

Bộ phanh gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh làm cho má phanh ép vào hai bên vành xe tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe chạy chậm lại hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi xe có thể dừng xe theo ý muốn.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe và giá đèo hàng hoặc giỏ đựng. Yên xe lắp ở trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng lắp ở phía sau yên, dựa trên trục bánh xe sau, có thể chở được khá nhiều hàng. Có khi người ta lại lắp bộ phận chở hàng ở phía trước, dựa trên trục bánh xe trước.

Ngoài các bộ phận chính như trên, xe đạp còn có cái chắn xích và hai chắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước, có đèn xe lấy nguồn điện từ đinamô lắp ở trước càng xe, và đèn tín hiệu lắp ở phía sau, có thể có chuông lắp gần chỗ tay cầm.Xe đạp là phương tiện giao thông rất tiện lợi trong cự li ngắn như trong làng, trong thành phố nhỏ. Xe đạp chuyển động không gây ô nhiễm. Đi xe đạp là một cách vận động cơ thể như một hoạt động thể thao.

Hiện nay xe máy quá nhiều, có cơ lấn lướt xe đạp, vừa gây ách tắc giao thông, vừa gây ô nhiễm môi trường. Trong tương lai khi phương tiện giao thông công cộng phát triển, xe đạp vẫn là phương tiện giao thông cá nhân không thể thiếu, vừa sạch sẽ vừa tiện lợi.

Nếu có ai hỏi tôi, tổ tiên của tôi có từ khi nào thì tôi sẽ kiêu hãnh trả lời: “Xe đạp đã đi qua gần hai thế kỉ”. Sử sách ghi lại rằng, cách chúng ta từ rất lâu ở xứ sở Ai Cập cổ đại, người ta đã chứng minh được nơi đây đã xuất hiện một loại xe hai bánh chuyển động bằng cách dùng hai chân để đạp. Tuy nhiên, phải đến năm 1817 thì thì các loại mẫu xe đạp mới được sử dụng rộng rãi.

Mọi người đừng nhìn bề ngoài mà tưởng tôi có cấu trúc đơn giản. Thực ra bên trong tôi lại có khá nhiều bộ phận phức tạp. Cấu tạo của tôi nói riêng và anh chị em tôi nói chung đều gồm hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở.

Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước, sau. Khi đi, người ta ngồi lên yên xe của tôi, tay cầm ghi đông, chân đạp bàn đạp làm cho trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo theo dây xích (sên), làm quay ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước.

Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ổ líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn hai lần số răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng thì ổ líp chuyển động hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động làm bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650 mm hay 700 mm, gấp 10 lần đường kính ổ líp. Như vậy, ổ líp quay một vòng thì bánh xe lăn được một quãng dài. Ổ líp quay sẽ làm cho tôi chạy nhanh về phía trước.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm có thể xoay qua phải, qua trái dễ dàng nhờ cổ xe có ổ bi, nhằm lái cho bánh xe trước đi theo ý muốn. Ghi đông vừa là tay lái, vừa để người đi xe nắm chắc giữ thăng bằng. Bộ phanh (thắng) gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh. Khi bóp tay phanh, má phanh ép vào hai bên vành xe, tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chạy chậm hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi có thể chạy nhanh hay chậm tùy ý.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, bộ phận đèo hàng hoặc giỏ đựng hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng (gác-ba-ga) lắp ở phía sau yên, dựa trên trục bánh xe sau, có thể chở được hàng tạ. Giỏ đựng hàng gắn ở phía đầu xe, dựa trên trục bánh trước.

Ngoài các bộ phận chính như trên, tôi còn có bộ phận chắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước (gác-đờ-bu), có bộ phận chắn xích che phía trên sợi dây xích, có đèn lấy nguồn điện từ đi-na-mô lắp ở trước càng xe, có đèn tín hiệu lắp ở phía sau xe, có chuông lắp gần chỗ tay cầm để xin đường lúc cần thiết.

Tôi rất tự hào khi mình là loại giao thông thuận tiện trong cự li ngắn như trong làng, trong thành phố nhỏ. Nếu sử dụng tôi sẽ không gây ô nhiễm môi trường do chuyển động bằng sức người. Ngoài ra, tôi cũng giúp người đi rèn luyện thể thao, nâng cao sức khỏe. Vì đi xe đạp sẽ giúp tăng cường sức khỏe tim mạch, giúp cho cơ bắp săn chắc, làm cho vòng eo thêm thon gọn, đồng thời đi xe đạp ít nhất 20 phút mỗi ngày còn tăng tuổi thọ, giảm stress và tăng sức mạnh hệ xương và những kĩ năng phối hợp.

Không chỉ vậy, tôi còn là một người bạn thân thiết với những ai đã từng đi qua quãng đời học sinh. Với các cô cậu học trò, dù xa trường đã bao nhiêu năm rồi thì tôi luôn tin chắc rằng hình ảnh của tôi vẫn in đậm trong tâm trí họ, chẳng thể nào phôi phai. Những trưa hè đổ lửa, những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng hồng hay chở mùa hè của người con trai 18 tuổi thưở nào để khắc nỗi nhớ lên cây.

Nhớ ngày hai buổi đến trường, tôi chở những niềm vui và nỗi buồn của một thời ngây ngô, dễ thương để khi chia xa rồi “ai cũng hiểu chỉ một người không hiểu…”. Những chiều trốn học, tôi lại cùng họ túm năm tụm ba đàn đúm với những trò chơi nhất quỷ nhì ma để đến tận bây giờ tôi chẳng thể nào quên những ngày tháng của “tuổi thơ dữ dội”. Khi mưa tôi cũng vội vã cùng các cô cậu học trò, khi nắng tôi lại thong dong cùng những người bạn ấy.

Xã hội càng ngày phát triển, công nghệ ngày càng tiên tiến, tôi nghĩ những phương tiện giao thông hiện đại sẽ thuận lợi hơn đối với mọi người. Nhưng tôi vẫn tự hào khi mình là một người bạn đồng hành, một người bạn biết cảm thông và chia sẻ. Tôi sẽ luôn đi cùng con người theo những nhịp đi của cuộc sống để đưa mọi người đến với thành công.

Phương tiện giao thông có vai trò rất lớn trong đời sống. Hiện nay, nhiều phương tiện mới ra đời thuận lợi cho việc đi lại, chuyên chở của con người như ô tô, máy bay, xe điện, thuyền bè và không thể không kể đến xe đạp, một trong những phương tiện ra đời từ rất sớm, phục vụ đắc lực cho nhu cầu đi lại của con người.

Xe đạp xuất hiện đầu tiên tại Đức, do Baron Karl von Drais phát minh vào năm 1817. Mô hình xe đạp này được làm từ gỗ, gắn với hai bánh xe và được di chuyển bằng cách người lái dùng hai chân để đẩy. Năm 1839, xe hai bánh được gắn với các thiết bị cơ khí đầu tiên ra đời tại Scotland, đó một người làm thợ rèn sáng tạo. Vào năm 1865, hai người anh em nhà Michaux quá quá trình nghiên cứu đã quyết định lắp thêm bàn đạp vào xe cho bánh xe trước. Qua bao thời gian , xe đạp ngày càng được cải tiến một cách gọn nhẹ hơn, thuận tiện hơn rất nhiều. Từ đó ,nhiều loại xe đạp khác nhau cũng được ra đời.

Những chiếc xe đạp mà thời kỳ đầu còn người mới phát minh chỉ có cấu tạo rất đơn giản, nó gồm khung xe và hai bánh xe gắn kết vào khung. Chất liệu để làm ra chúng chủ yếu là từ gỗ. Một chiếc xe đạp hiện nay được cấu tạo bởi khung xe ,hai bánh xe, bàn, trục quay, đạp, xích, dĩa , tay lái, phanh, tay lái, yên xe…những bộ phận này được làm từ kim loại là chính. Xe đạp chuyển động khi người điều khiển tác động lực trên bàn đạp và được giữ thăng bằng của xe khi đi chuyển.

Hiện nay, xe đạp được sử dụng vô cùng rộng rãi. Tính trên toàn thế giới phải có tới hàng tỷ chiếc xe đạp được sử dụng. Có thể phân loại xe đạp theo công dụng: xe đạp thể thao, xe đạp địa hình, xe đạp mini. Phân loại theo nguyên lý hoạt động có xe đạp thường và xe đạp điện. Ngoài ra còn phân loại theo các hãng xe của các nhà sản xuất cho ra đời. Do nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng nên hiện nay có nhiều mẫu xe đạp được sản xuất với mẫu mã vô cùng đẹp mắt nên ở mọi lứa tuổi đều có thể chọn cho mình một chiếc xe ưng ý.

Việc sử dụng xe đạp với số lượng lớn đã cho thấy tính tiện ích của loại xe này. Thứ nhất, xe đạp giá thành không quá cao, người dùng có mức thu nhập thấp cũng có thể sở hữu cho mình một chiếc mà không cần phải quá phân vân hay chần chừ khi mua. Thứ hai, đây là phương tiện giúp bảo vệ môi trường tốt nhất, những khói bụi của xe máy, xa hơi khiến ta mệt mỏi nhưng đi trên chiếc xe đạp môi trường sẽ được trong lành hơn rất nhiều. Thứ ba, xe đạp giúp tiện lợi trong việc di chuyển ở những con đường nhỏ, ngõ ngách mà các phương tiện khác không vào được, ít bị tắc đường ở đô thị hơn, nhờ vậy mà những vụ tai nạn sẽ giảm hơn nếu mọi người chọn xe đạp làm phương tiện. Ngoài ra, xe đạp còn giúp cho con người rèn luyện được sức khoẻ dẻo dai khi luyện tập. Tuy nhiên, bên cạnh đó, xe đạp còn có những khuyết điểm khó có thể khắc phục. Giá thành rẻ nên nó không quá bền, dễ bị hỏng hóc khi va chạm với các phương tiện lớn hơn. Nếu đi đường xa bằng xe đạp thì rất mệt và tốn nhiều thời gian hơn rất nhiều, xe cũng không chở được quá nhiều đồ như xe máy, hay ô tô. Tuy vậy, xe đạp vẫn là lựa chọn rất hữu ích cho đời sống của con người.

Trong chiến tranh, xe đạp là phương tiện vận tải lương thực tiếp tế cho quân đội. Xe cùng người vào ra chiến trận, mang vũ khí, đạn dược, cũng là phương tiện giao liên kỳ diệu góp phần vào thắng lợi của bộ đội ta. Khi hoà bình, xe cùng người mẹ, người cô đưa hàng rong quá mọi nẻo đường để bán, cùng những cô cậu học sinh ngày ngày đến trường trong tà áo trắng xinh. Xe đạp đã gắn bó với con người thật bình dị và tự nhiên như thế. Dù trong lao động, trong chiến đấu, trong hôm nay và cả những mai sau, xe vẫn mãi song hành cùng người trên những con đường yêu thương.

Muốn bền lâu thì phải giữ gìn, đó là điều tất nhiên. Và xe đạp cũng thế, cần phải được “quan tâm”, không để ngoài mưa, ngoài nắng ngày này qua ngày khác, xe dễ bị hỏng hóc hoặc nổ lốp. Khi đi quá đoạn đường trơn cần đi chậm rãi, hạn chế để xe bị ngã. Đồng thời phải thường xuyên lau chùi, thêm luyn, nhớt cho xe để bảo vệ xe được lâu hơn.

Xe đạp cũng được đi vào nhiều trang thơ, lời văn, khúc hát của nghệ thuật Việt Nam. Tôi còn nhớ câu hát thiết tha trong bài họa phượng: “Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng. Em chở mùa hè của tôi đi đâu..”

Hay trong lời thơ chân thành:

Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhiều phương tiện hiện đại mới ra đời nhưng xe đạp vẫn có chỗ đứng riêng trong lòng người sử dụng. Hy vọng rằng tôi, các bạn và tất cả mọi người sẽ chăm đi xe đạp hơn để bảo vệ môi trường xanh đẹp.

Chiếc xe đạp được phát minh ra ở Châu Âu và được nhập vào nước ta khoảng đầu thế kỉ XX. Xe đạp là phương tiện giao thông chuyển động bằng sức người, cấu tạo đơn giản, dễ điều khiển… rất thuận lợi cho việc đi lại.

Cấu tạo của xe đạp gồm hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở.

Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa ổ líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước, sau. Khi đi, người ta ngồi lên yên xe, tay cầm ghi đông, chân đạp bàn đạp làm cho trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo theo dây xích (sên), làm quay ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ổ líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn hai lần số răng cưa của ổ líp. Khi đĩa chuyển động một vòng thì ổ líp chuyển động hơn hai vòng. Ổ líp chuyển động làm bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 700mm, gấp 10 lần đường kính ổ líp. Như vậy, ổ líp quay một vòng thì bánh xe lăn được một quãng dài. Ổ líp quay sẽ làm cho xe chạy nhanh về phía trước.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm có thể xoay qua phải, qua trái dễ dàng nhờ cổ xe có ổ bi, nhằm lái cho bánh xe trước đi theo ý muốn. Ghi đông vừa là tay lái, vừa để người đi xe nắm chắc giữ thăng bằng. Bộ phanh (thắng) gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh. Khi bóp tay phanh, má phanh ép vào hai bên vành xe, tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe sẽ chạy chậm hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết. Nhờ bộ phanh mà người đi xe đạp có thể chạy nhanh hay chậm tùy ý.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, bộ phận đèo hàng hoặc giỏ đựng hàng. Yên xe lắp trên khung xe là chỗ ngồi của người đi xe. Dàn đèo hàng (gác-ba-ga) lắp ở phía sau yên, dựa trên trục bánh xe sau, có thể chở được hàng tạ. Giỏ đựng hàng gắn ở phía đầu xe, dựa trên trục bánh trước.

Ngoài các bộ phận chính như trên, xe đạp còn có bộ phận chắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước (gác-đờ-bu), có bộ phận chắn xích che phía trên sợi dây xích, có đèn lấy nguồn điện từ đi-na-mô lắp ở trước càng xe, có đèn tín hiệu lắp ở phía sau xe, có chuông lắp gần chỗ tay cầm để xin đường lúc cần thiết.

Vào cuối thế kỉ XIX, bánh xe đạp còn làm bằng gỗ, nẹp sắt, do đó đi rất xóc. Người đầu tiên sáng chế ra chiếc lốp xe bằng cao su là Đân-lớp, một hộc sinh nước Anh. Từ một lần suýt ngã vì vấp phải ống cao su dẫn nước, Đân-lớp đã nghĩ ra cách cuộn ống cao su cho vừa vành bánh xe rồi bơm hơi căng lên thay cho gỗ và nẹp sắt. Phát minh của Đân-lớp được đăng kí chính thức vào năm 1880. Về sau, lốp xe đạp có thêm chiếc săm bơm căng hơi nằm bên trong có lực đàn hồi, xe chạy êm hẳn.

Xe đạp là phương tiện giao thông rất tiện lợi trên quãng đường ngắn từ dăm cây số đến vài chục cây số như đi trong làng hay trong thành phố nhỏ. Xe đạp chuyển động bằng sức người nên không gây ô nhiễm môi trường. Người đi xe đạp chỉ cần sử dụng một lực rất nhỏ nhưng đi được một đoạn đường dài. Đi xe đạp cũng là một cách vận động cơ thể có ích như hoạt động thể thao, thể dục.

Trong kháng chiến 9 năm chống Pháp, chiếc xe đạp đã cùng dân công thồ hàng phục vụ cho bộ đội đánh thắng trận Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Trong kháng chiến chống Mĩ, chiếc xe đạp lại cùng lực lượng thanh niên xung phong vận chuyển lương thực, vũ khí trên tuyến đường Trường Sơn, góp phần quét sạch quân xâm lược Mĩ ra khỏi bờ cõi, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày nay, chiếc xe đạp là phương tiện đi lại rất thuận lợi cho nhiều tầng lớp trong xã hội, nhất là các bạn học sinh ngày ngày đến trường học tập.

Hiện nay, ở các thành phố lớn, số lượng xe máy quá nhiều, vừa gây ách tắc giao thông vừa gây ô nhiễm môi trường. Trong tương lai, khi phương tiện giao thông công cộng phát triển rộng rãi thì xe đạp vẫn là phương tiện giao thông cá nhân không thể thiếu, vừa sạch sẽ vừa tiện lợi.

Trong cuộc sống hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển dẫn đến sự xuất hiện của càng nhiều các phương tiện giao thông thuận tiện, dễ sử dụng. Thế nhưng hình ảnh chiếc xe đạp nhỏ gọn, quen thuộc vẫn luôn hiện hữu như một phương tiện không thể thiếu.

Xe đạp xuất hiện đầu tiên ở châu Âu và du nhập vào Việt Nam vào thế kỉ XX. Chiếc xe đạp đầu tiên được sáng chế ra bởi một công tước người Đức với nguyên liệu bằng gỗ và qua nhiều giai đoạn phát triển và hoàn thiện đã trở thành chiếc xe đạp gọn nhẹ như hiện nay. Tại Việt Nam, xe đạp đang dần bị thay thế bằng các loại phương tiện khác nhưng ở các miền quê hình ảnh xe đạp vẫn còn xuất hiện rất nhiều.

Xe đạp gồm có ba hệ thống chính: hệ thống chuyển động, hệ thống chuyên chở và hệ thống điều khiển. Hệ thống chuyển động gồm có khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, đĩa olip, hai trục, và hai bánh. Khi người ta ngồi lên xe, chân đạp bàn đạp tạo lực cho trục xe chuyển động kéo theo sự chuyển động của các bộ phận còn lại và làm quay bánh xe giúp cho xe di chuyển. Hệ thống chuyên chở gồm có yên xe đủ chỗ cho một người ngồi trong lúc đạp xe, giỏ xe để đựng đồ, gác-ba-ga sau yên xe để cho một người nữa ngồi khi đi chung. Hệ thống điều khiển có ghi đông với hai tay cầm giúp cho người điều khiển có thể điều chỉnh hướng đi của xe một cách dễ dàng và nhẹ nhàng. Đi kèm với ghi đông còn có hai phanh trước và sau có thể giúp người lái dừng lại đột ngột. Một số loại xe sẽ lắp thêm hệ thống đi-na-mô để chiếu sáng khi di chuyển hoặc khóa xe ở bánh.

Tuy với thiết kế gọn nhẹ nhưng xe đạp lại mang tới rất nhiều lợi ích. Xe đạp nhỏ vì vậy có thể đi trong bất cứ hoàn cảnh nào. Chỉ với một chút sức lực bạn có thể di chuyển đoạn đường khá dài, không chỉ vậy đi xe đạp còn là một cách để tập thể dục, rèn luyện sức khỏe. Ngoài ra, vì không có bộ phận máy móc, bạn sẽ không cảm thấy lo lắng về hiện tượng xe chết máy mỗi khi trời mưa. Khuyết điểm duy nhất đó là khi xe tuột xích thì khá dễ để lắp lại với một chiếc tua vít.Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, khi mà các phương tiện khác như xe máy, ô tô,… thải ra môi trường một lượng lớn khói bụi gây ra ô nhiễm không khí nghiêm trọng thì xe đạp là một sự lựa chọn hoàn hảo để bạn góp phần bảo vệ môi trường. Hơn thế nữa với khoa học phát triển hiện nay thì càng xuất hiện nhiều các mẫu mã xe đạp mới như xe đua, xe địa hình,.. hứa hẹn sẽ cho bạn những trải nghiệm thú vị

Tuy cấu tạo khá đơn giản nhưng chúng ta cũng cần biết cách chăm sóc cho người bạn đồng hành này. Người dùng nên thường xuyên lau rửa sạch sẽ để chiếc xe có một vẻ ngoài thật đẹp, tra dầu định kì cho xe để không bị rít, đặc biệt chú ý tới hệ thống phanh, tránh tình trạng phanh không ăn hoặc đứt phanh sẽ gây nên nguy hiểm rất lớn cho người sử dụng đặc biệt ở những con đường dốc, ngoằn ngoèo, lắm phương tiện qua lại.

Chiếc xe đạp đã gắn bó với bao thế hệ học sinh, hiện lên với bóng trắng thướt tha của tà áo dài hay kiên cường kề vai cùng các chiến sĩ chở đồ tiếp tuyến cho các chiến sĩ nơi mặt trận trong những cuộc chiến lịch sử của dân tộc. Chiếc xe đạp đã trở thành một phần kí ức của bao người dân Việt Nam.

Trong bất kỳ chúng ta, không ai là không biết đến chiếc xe đạp. Xe đạp từ lâu đã trở thành một đồ dùng, hay nói chính xác hơn là một phương tiện giao thông đi lại vô cùng phổ biến, thông dụng và quen thuộc đối với mỗi chúng ta.

Trước đây người ta cho rằng xe đạp được sáng chế bởi bá tước Sivrac vào năm 1790, với cái tên Célérifère (célérité có nghĩa là nhanh). Nó là một cái máy bằng gỗ, không có bánh xe để lái; việc chuyển hướng đòi hỏi phải lắc mạnh phần trước của xe. Ngày nay các sử gia về kỹ thuật cho rằng không có chiếc xe Célérifère cũng như bá tước Sivrac, đó chỉ là những hình ảnh sai vì xe đạp không tay lái rất khó điều khiển. Célérifère đồ chơi thì có thể có, nhưng không thể chạy nó trong thực tiễn. Năm 1817, nam tước người Đức là Baron Karl von Drais đã phát minh ra chiếc xe mang tên ông gọi là Draisienne (xe của Drais) được xem là tổ tiên của xe đạp. Drais đã giới thiệu mô hình xe này cho công chúng tại Mannheim vào mùa hè 1817 và tại Paris năm 1818. Người lái ngồi dạng chân trên một khung gỗ được hỗ trợ bởi hai bánh xe và đẩy chiếc xe bằng hai chân của mình trong khi chỉnh hướng bằng bánh xe phía trước.

Xe đạp là một phương tiện giao thông có hai bánh, dùng bàn đạp để điều khiển, gồm hai bánh xe được gắn vào cùng một khung xe, bánh này sau bánh kia. Đa số xe đạp chuyển động nhờ lực đạp của người điều khiển, và giữ thăng bằng nhờ định luật bảo toàn mômen quán tính. Xe đạp đã được đưa vào sử dụng vào thế kỷ 19 ở châu Âu. Cho đến năm 2003, xe đạp có số lượng hơn một tỷ trên toàn thế giới, gấp đôi so với xe ô tô. Xe đạp là phương tiện chính của giao thông ở nhiều khu vực. Xe đạp cũng là một hình thức phổ biến cho giải trí, và đã được điều chỉnh để sử dụng như đồ chơi trẻ em, thiết bị trong phòng tập thể dục, các ứng dụng trong quân đội và cảnh sát, dịch vụ chuyển phát nhanh, và đua xe đạp. Hình dạng cơ bản và cấu hình của một xe đạp đứng, hoặc xe đạp an toàn, đã thay đổi rất ít kể từ khi mô hình đầu tiên của xe đạp được phát triển vào khoảng năm 1885. Tuy nhiên, nhiều chi tiết đã được cải thiện, đặc biệt là kể từ sự ra đời của vật liệu hiện đại và thiết kế được máy tính hỗ trợ (CAD). Những hỗ trợ này cho phép gia tăng số lượng các thiết kế chuyên dụng cho nhiều loại xe đạp.

Advertisement

Xe đạp được coi là phương tiện giao thông thân thiện với môi trường sinh thái. Nó được sử dụng phổ biến ở nhiều nước có thu nhập đầu người thấp, như các nước châu Phi, Việt Nam, Trung Quốc, như phương tiện đi lại hằng ngày chính. Ở nhiều nước phương Tây, xe đạp được dùng nhiều hơn cho các hoạt động thể thao hay dã ngoại. Việc sử dụng xe đạp cho giao thông thường nhật cũng được khuyến khích tại các nước này với đường dành riêng cho xe đạp. Phương tiện này cũng thích hợp cho các đường phố nhỏ hẹp của các đô thị cổ, như Amsterdam ở châu Âu. Phát minh ra xe đạp đã có ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội, cả về văn hóa và việc thúc đẩy công nghiệp hiện đại hóa. Một số thành phần cuối cùng đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của ô tô đầu tiên được phát minh để sử dụng trong xe đạp, bao gồm vòng bi, bánh hơi, đĩa xích điều khiển, và vành bánh xe được cân chỉnh bằng hàng loạt tăm kim loại.

Như vậy, xe đạp từ lâu đã trở thành một phương tiện giao thông đi lại vô cùng hữu ích và quen thuộc đối với mỗi người chúng ta. Cuộc sống chúng ta không thể nào chiếc xe đạp, dẫu cho bây giờ xã hội có nhiều phương tiện giao thông hiện đại hơn như: xe đạp điện, xe máy điện, xe máy….

Xe đạp là một phương tiện di chuyển phổ biến và quan trọng trong đời sống hàng ngày của con người trên tất cả các nước thế giới. Giờ đây nó không đơn thuần là giúp chúng ta trong việc đi lại dễ dàng mà xe đạp còn rất nhiều hữu ích như là phương tiện thể dục, phương tiện thể thao, bảo vệ môi trường.

Xe đạp (tên tiếng anh là Bike) là một loại hình phương tiện đi lại với thiết kế 2 bánh xe (trước và sau) được gắn cùng vào hệ thống khung, bánh sau nối tiếp bánh trước với khoảng cách nhất định và dùng bàn đạp để có thể di chuyển thông qua chuyển động của xích. Xe đạp có cấu tạo khá đơn giản, dễ điều khiến, nó chuyển động được là bởi lực đạp trực tiếp từ người ngồi trên xe và giữ cân bằng khi di chuyển nhờ vật lý học theo định luật bảo toàn Momen quán tính.

Năm 1790, bá tước tên Sivrac đã nghĩ ra mô hình chiếc xe đạp đầu tiên tên là Célérifère. Nhưng nó không thể hoạt động. Đến năm 1870, người Anh J. Starley chế ra xe đạp bằng thép nguyên chiếc đầu tiên, với các bánh xe có căm xe căng và có cao su xung quanh niền xe. Nhưng xe này chỉ dùng bánh xe trước để lái và đạp, còn bánh sau chỉ để mang trọng lượng cơ thể.

Chiếc xe đạp hiện đại được chế tạo vào năm 1879 bởi Lawson. Năm 1880, xe đạp hai bánh mang tên biciclette, bicycle (bi=2, cycle = bánh xe) – chính thức được ra đời, đánh dấu thời kì phát triển hưng thịnh của phương tiện này.

Sau rất nhiều cải tiến, chiếc xe đạp được trang bị nhiều bộ phận tiện lợi hơn, giúp tiết kiệm sức lực, tốc độ nhanh hơn, xe bền hơn và an toàn hơn. Với trên 200 năm hình thành và phát triển, xe đạp được cải biến hơn nhiều và được xem như một phương tiện chuyên chở không gây ô nhiễm môi trường được sử dụng phổ biến, để bớt ô nhiễm và có sức khỏe hơn.

Đầu tiên phải kể đến là hệ thống truyền lực gồm: Bàn đạp (pê-đan), đùi, trục giữa, đĩa, xích, líp. Trong đó, líp gồm hai bộ phận chính là: vành và cốt. Vành líp có răng ở phía ngoài và trong. Răng ngoài để ăn khớp với xích, răng trong có dạng răng cưa nghiêng về một phía ăn khớp với cá líp là một lưỡi thép nhỏ. Cốt líp có hai rãnh để đặt hai cá líp, trong mỗi rãnh có một lò xo nhỏ hoặc một cái lẫy làm bằng sợi thép nhỏ có tính đàn hồi. Cốt líp lắp chặt với moay-ơ bánh sau bằng ren. Bình thường, đầu nhọn của cá líp quay theo chiều kim đồng hồ nhờ bộ phận truyền động xích. Trong khi đó, lò xo đẩy cá líp lên làm răng trong vành líp mắc vào cá líp kéo cốt líp quay theo cùng chiều với vành của líp, làm bánh xe quay theo.

Khi đang đi xe, nếu ta không đạp bàn đạp, vành líp không quay, theo quán tính bánh xe vẫn lăn về phía trước, cốt líp cùng cá líp quay theo chiều kim đồng hồ, khi quay cá líp trượt trên răng trong của vành líp, ép lò xo xuống, đồng thời phát ra tiếng kêu “tạch tạch”. Khi xe đang đứng yên, nếu ta quay đùi đĩa theo chiều ngược chiều kim đồng hồ làm răng trong trượt lên cá líp nên cốt líp không quay được, do đó bánh xe không quay. Bởi vậy líp được gọi là khớp quay một chiều.

Hệ thống chuyển động bao gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, xích, đĩa, ổ líp, 2 trục, ổ bi và các bánh xe. Trong đó, trục, moay-ơ, nan hoa, vành bánh xe được làm bằng thép. Moay-ơ cũng liên kết với vành bánh xe tạo thành nan hoa. Săm và lốp thì được chế tạo từ xoa su tổng hợp để tăng độ êm cho xe khi chuyển động. Khi có tác động lực từ chân người đạp, lực được truyền đến bàn đạp và đùi xe rồi từ trục giữa chuyển đến bộ phận dây xích làm quay hệ thống ổ líp và bánh sau, tạo nên lực đẩy nhất định giúp cho chiếc xe đạp chuyển động về trước.

Hệ thống điều khiển gồm có ghi đông cấu tạo từ 2 tay cầm, bộ phận này giúp người sử dụng có thể điều khiển xe đạp chuyển hướng qua trái, qua phải dễ dàng theo chuyển động nhờ vào ổ bi nằm ở giữa trục cổ xe. Phần ghi đông sẽ vừa là tay lái vừa là chỗ để chúng ta nắm giữ khi lái xe. Hệ thống lái giúp người đi xe điều khiển xe một cách dễ dàng, thuận lợi, không tốn nhiều sức lực. Trong đó, việc xe có chuyển hướng được hay không là phụ thuộc vào hướng chuyển của bánh xe. Ngoài ra, hai cái phanh ở tay lái giúp điều khiển tốc độ của xe một cách tiện lợi.

Hệ thống phanh giảm tốc an toàn của xe đạp được tạo ra giúp người sử dụng làm chủ vận tốc di chuyển, đồng thời đảm bảo an toàn giao thông, tránh gây tai nạn. Trong đó, có hai loại phanh xe đạp chính là phanh đĩa và phanh niềng. Tuy nhiên, hai loại phanh này đều có chung các bộ phận chính là: tay phanh, dây phanh, cụm má phanh. Khi xe đạp đang di chuyển ở tốc độ cao, xuống dốc hay gặp vấn đề cần phải dừng gấp thì người lái xe sẽ bóp tay phanh lại và ngay lập tức má phanh ở 2 bên sẽ ép vào vành bánh xe tạo một lực ma sát mạnh và sẽ làm giảm tốc độ hoặc dừng hẳn xe lại.

Bộ khung chịu lực là bộ phận kết nối và cố định các bộ phận khác trên xe. Trước kia, khung chịu lực của xe đạp được làm bằng gỗ. Do đó, khung chịu lực của xe lúc bấy giờ không được vững chắc, tuổi thọ lại không cao, dễ bị gãy bất cứ lúc nào. Nhưng sau khi được cải tiến, khung xe đạp đã được làm từ tạo được độ cứng, độ bền, đáp ứng được nhu cầu của người đi . Ngoài ra, khung xe cũng đảm nhận việc liên kết các bộ phận của xe thành một khối nhất định.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe, giỏ xe, gác ba ga (bộ phận đèo hàng). Phần yên gắn ở trục đứng giữa xe, để người điều khiển ngồi lên. Yên xe đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp người đi xe đạp có một chỗ ngồi thoải mái với tư thế tốt nhất. Gác ba ga hay bộ phận đèo hàng được lắp đặt ở phía sau yên trên trục bánh sau. Giỏ đồ được gắn phía trên đầu xe phía trên bánh trước.

Ngoài ra ở một số dòng xe đạp thể thao hay xe đạp thường còn được gắn thêm hệ thống chắn bùn trước sau để tránh trời mưa, hay gắn thêm hệ thống đèn chiếu sáng lấy từ nguồn điện đi-na-mô được gắn ở phía trước càng xe, chuông xe được lắp ở cạnh tay cầm trên phần ghi đông, hộp xích, khóa chống trộm…và nhiều phụ kiện khác kèm theo.

Xe đạp là phương tiện di chuyển tiện lợi, hoàn toàn do sức người. Ngày nay, người ta sử dụng những vật liệu bền bỉ trong sản xuất xe đạp, tuy nhiên, khi sử dụng cũng phải hết sức giữ gìn và bảo quản xe đạp để sử dụng an toàn và bền lâu.

Trước hết, không chuyển chở quá trọng lượng quy định của xe đạp bởi có thể làm hư hỏng các bộ phận của xe, đặc biệt là bộ phận khung chịu lực, vành và nan hoa. Không nên đi xe ở những địa hình quá gập ghềnh, nhiều vật cản, gai nhọn, đá cuội sắc bén sẽ làm hỏng lốp săm.

Thường xuyên kiểm tra phanh thắng để đảm bảo an toàn khi di chuyển. Thường xuyên tra dầu mỡ để các bộ phận ít bào mòn và di chuyển tốt hơn.

Khi không sử dụng, cần bảo quản xe đạp ở nơi thoáng mát, tránh để ngoài mưa nắng, hay nơi gần nguồn nhiệt. Không dùng lực tác động quá mạnh vào các bộ phận theo hướng nghịch dễ làm hỏng xe. Khi xe đạp không còn giá trị sử dụng, nên bán để phục hồi tái sử dụng hoặc tái chế để bảo vệ môi trường.

Xe đạp cũng được xếp vào phương tiện tham gia giao thông phổ biến nhất thế giới, nó mang đến nhiều lợi ích cho người sử dụng như giúp ta di chuyển dễ dàng tiện lợi trên những quãng đường ngắn như đường làng chật hẹp hay những con phố nhỏ,.. không hề tốn kém mức chi phí nào khác, và hiện nay xe đạp còn là thú vui của hầu hết mọi người trên thế giới.

Xe đạp di chuyển nhờ vào sự tác động từ chân tới bàn đạp xe nên nó rất thân thiện với người dùng cũng như môi trường, hoàn toàn không thải khí vì không dùng đến động cơ, không gây ô nhiễm, không gây ra khói bụi và đặc biệt là an toàn hơn.

Đây cũng là phương tiện dạo mát hay tập thể dục hữu hiệu, thật thú vị khi đạp xe vòng quanh hồ hay trải nghiệp đường trường, mạo hiểm bằng những chiếc xe đạp địa hình là một cách để rèn luyện sức khỏe và vận động cơ thể thật tốt. Xe đạp còn được đưa vào những giải đấu quốc tế mà nhiều người cực thích.

Xe đạp vốn là một phương tiện giao thông được người dân ưa chuộng vào thập kỉ tám mươi, chín mươi. Xe đạp dễ sử dụng, giá thành lại phù hợp với mọi gia đình, chỉ cần vài lần tập luyện là có thể điều khiển được. Tốc độ không nhanh như các phương tiện khác, lại sử dụng sức người nên vừa có tác dụng giảm ô nhiễm môi trường vừa giúp con người rèn luyện sức khỏe. Ngoài ra, sự ra đời của xe đạp đã đánh dấu một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại, vừa là người bạn đồng hành với con người qua năm tháng dài đằng đẵng.

Có thể nói xe đạp là một phương tiện đi lại khá nhỏ gọn và dễ sử dụng, chỉ chiếm một phần nhỏ diện tích khu vực nhà ở. Xe đạp được cấu tạo từ nhiều chất liệu kim loại nên cần được bảo quản ở nơi khô ráo, thoáng mát nhưng cần chế để ngoài trời nắng vì có thể gây gỉ sét. Ngoài các vấn đề nói trên chỉ cần giữ gìn cẩn thận, bảo quản tốt thì tuổi thọ của xe đạp tăng thêm được vài năm.

Từ rất lâu, xe đạp đã trở thành một hình ảnh thân thuộc và giản dị đối với tất cả mọi người, dù là trẻ hay già. Và cho tới ngày nay, xe đạp vẫn là ng bạn thân thiết nhất của con người trên những chặng đường. Dù cho mai sau, thế giới này có tiến bộ đến đâu thì từng khoảnh khắc về chiếc xe đạp thân thương ấy trong tâm trí của mỗi con người cũng không phai nhòa.

Xe đạp là một phương tiện giao thông hai bánh và là một dụng cụ thể thao rất phổ biến. Xe đạp là phương tiện giao thông giản tiện chuyển động nhờ sức người. Đa số xe đạp chuyển động nhờ lực đạp của người điều khiển và giữ thăng bằng nhờ định luật bảo toàn momen quán tính. Phát minh ra xe đạp đã có ảnh hưởng rất lớn đối với xã hội, cả về văn hóa và việc thúc đẩy công nghiệp hiện đại hóa.

Năm 1790, xe đạp lần đầu tiên xuất hiện với cái tên célérifère, do bá tước Sivrac sáng chế. Thực tế, nó là một cái máy bằng gỗ, không có bánh xe để lái; việc chuyển hướng đòi hỏi phải lắc mạnh phần trước của xe. Chiếc xe ấy chỉ đi thẳng. Đến năm 1813, nam tước người Đức Karl Friedrich Drais làm cho bánh trước có thể thay đổi hướng được.Người lái ngồi dạng chân trên một khung gỗ được hỗ trợ bởi hai bánh xe và đẩy chiếc xe bằng hai chân của mình trong khi chỉnh hướng bằng bánh xe phía trước

Sáng kiến lắp thêm pedan (bàn đạp) cho bánh trước được cho là thuộc về hai anh em Ernest Michaux và Pierre Michaux. Nhờ sáng kiến có tính đột phá ấy, cỗ xe ấy chính thức được gọi là bicycle (xe đạp). Năm 1879, một người Anh là Lawson đã sáng chế xích để truyền động cho bánh sau. Năm 1887, John Boyd Dunlop, một nhà thú y Scotland, tiếp tục cải tiến bánh xe với việc dùng ống hơi bằng cao su.

Tiếp sau đó, các sáng kiến quan trọng góp phần hoàn thiện chiếc xe đạp như thay khung gỗ bằng khung sắt, kết nối bánh niền với trục bằng nan hoa, bộ phận phanh thắng, bộ phận điều khiển, bộ phận chống sốc,… Từ đó, chiếc xe đạp hoàn thiện đầu tiên chính thức ra đời và nhanh chóng trở thành một phương tiện di chuyển trong đời sống con người.

Xe đạp vốn được làm bằng gỗ. Từ năm 1869 các xe đạp này đã được làm bằng thép. Xe đạp do nhiều bộ phận tạo thành, chủ yếu là hệ thống truyền động, hệ thống điều khiển và hệ thống chuyên chở.

Hệ thống truyền động gồm khung xe, bàn đạp, trục giữa, ổ bi giữa, dây xích, đĩa, ố líp, hai trục, ổ bi và hai bánh trước sau. Người đi xe ngồi lên xe, chân đạp bàn đạp làm trục xe chuyển động, đĩa chuyển động kéo dây xích làm chuyển động ổ líp và bánh sau, tạo lực đẩy cho xe tiến về phía trước. Đĩa răng cưa có đường kính lớn hơn đường kính ố líp, số răng cưa của nó nhiều gấp hơn hai lần số răng cưa của ổ líp.

Khi đĩa chuyển động một vòng thì ổ líp chuyển động hơn hai vòng. Khi ổ líp chuyến động làm bánh xe chuyển động theo. Đường kính bánh xe thường là 650mm hay 700 mm, gấp 10 lần đường kính ổ líp. Như vậy ổ líp quay một vòng thì bánh xe đã lăn được một quãng dài. Ổ líp quay nhanh sẽ làm xe chạy nhanh về phía trước. Lúc đầu bánh xe làm bằng gỗ nên khi chạy, xe xóc rất dữ. Ngày nay người ta làm bánh xe bằng cao su, lốp ở ngoài, săm ở trong, bơm hơi thật căng, có lực đàn hồi, xe chạy ít xóc hẳn.

Bánh xe là bộ phận quan trọng nhất giúp xe chuyển động. Bánh xe làm bằng cao su có tính đàn hồi cao. Vỏ ngoài bánh xe gọi là xăm xe. Bên trong gọi là ruột xe. Ruột xe có chứa hơi với sức nén rất lớn giúp tăng tính đàn hồi. Ngày nay, còn có loại ruột xe liền không có ruột. Hai bộ phận này được hợp nhất lại với nhau giúp hạn chế những rủi ro xì xẹp hơi. Bộ phận lốp và ruột được nâng đỡ bởi mâm kim loại vũng chắc.

Bánh xe xe được gắn kết với trục bằng hệ thống 36 nan hoa kim loại. Các năn hoa được sắp xếp theo một trật tự nhất định, có chức năng nối kết bánh mâm và trục, đồng thời còn giảm xóc cho xe khi di chuyển.

Trục xe là một ống kim loại, bên trong rỗng, có trục thép xuyên qua. Trên trục có 2 ổ bi ở hai đầu trục giúp trục có thể chuyển động tròn. Mỗi ổ bi thường có 36 viên bi nhỏ. Một bộ phận gắn chặt với than xe, một trục kim loại gắn với bánh xe giúp xe chuyển động khi đạp. Lực từ bàn đạp được truyền qua xích, líp đẩy bánh sau chuyển động đưa xe chạy về phía trước.

Hệ thống điều khiển gồm ghi đông có hai tay cầm xoay được qua cố xe có ổ bi nhằm lái cho bánh xe trước đi theo phương hướng mong muốn. Hai cái phanh lắp hai đầu tay điều khiển cho tốc độ xe khi đang chạy nhanh có thể chậm lại hoặc dừng hẳn. Bộ phanh gồm tay phanh, dây phanh truyền sức ép xuống càng phanh làm cho má phanh ép vào hai bên vành xe, tạo thành lực ma sát làm giảm tốc độ chuyển động của bánh xe và xe chạy chậm lại hoặc đứng hẳn lại khi cần thiết.

Nhờ bộ phanh mà người đi xe có thể dừng theo ý muốn. Hai tay cầm ở ghi đông vừa là tay lái, vừa là chỗ nắm để giữ cho người đi xe ngồi vững trên xe. Ngày nay, khi công nghệ phát triển, người ta đã nâng cấp bộ phận phanh thắng hết sức an toàn, hạn chế rủi ro cho người sử dụng.

Hệ thống chuyên chở gồm yên xe và bar-ga ở sau và giỏ đựng ở trước. Yên xe lắp ở trên trục đứng của khung xe. Đó là chỗ ngồi của người đi xe. Bộ phận bar-ga nằm ở phía sau yên xe và thấp hơn khoảng 10cm. Bộ phận này dựa trên trục bánh xe sau, có thể chở được khá nhiều hàng. Có khi người ta lại lắp bộ phận chở’ hàng ở phía trước, dựa trên trục bánh xe trước. Tuy nhiên, khi đồ nặng ở trước xe sẽ gây khó khăn khi chuyển động. Giở xe ở phía trước tay lái, thưởng bỏ những vật nhẹ.

Ngoài các bộ phận chính như trên, xe đạp còn có cái chắn xích và hai chắn bùn lắp trên bánh sau và bánh trước, có đèn xe lấy nguồn điện từ đi-na-mô lắp ở trước càng xe, và đèn tín lắp ở phía sau, có thể có chuông lắp gần chỗ tay cầm.

Ngoài ra, xe đạp còn có bộ phận chống dựa. Chống dựa giúp xe đứng vững khi không sử dụng. Bộ phận này có thể được gắn ở trục giữa của xe hoặc bên trái trục sau. Trên sườn xe, người ta còn gắn các bộ phận phụ khác như bộ phận giữ bình nước, giữ thiết bị phụ đi kèm, trang trí,…

Xe đạp là phương tiện giao thông rất tiện lợi trong cự li ngắn như trong làng, trong thành phố nhỏ. Xe đạp chuyển động không gây ô nhiễm. Xe đạp được coi là phương tiện giao thông thân thiện với môi trường sinh thái. Nó được sử dụng phổ biến ở nhiều nước có thu nhập đầu người thấp như các nước châu Phi, Việt Nam, Trung Quốc,… làm phương tiện đi lại chính hằng ngày.

Đi xe đạp là cách vận động cơ thể như một hoạt động thể thao. Ở nhiều nước phương Tây, xe đạp được dùng nhiều hơn cho các hoạt động thể thao hay dã ngoại. Việc sử dụng xe đạp cho giao thông thường nhật cũng được khuyến khích tại các nước này với đường dành riêng cho xe đạp. Phương tiện này cũng thích hợp cho các đường phố nhỏ hẹp của những đô thị cổ như Amsterdam ở châu Âu

Xe đạp còn được coi là một môn thể thao với các thể loại khác nhau: đường trường, địa hình,… và được thi đấu trong SEA Games, Olympic,… Các giải đua xe đạp hàng năm trên thế giới thường diễn ra rất rần rộ, thu hút được sự chú ý của mọi người.

Hiện nay xe máy ở nước ta quá nhiều, vừa gây ách tắc giao thông vừa gây ô nhiễm môi trường. Trong tương lai, khi phương tiện giao thông công cộng phát triển, xe đạp vẫn là phương tiện giao thông cá nhân không thể thiếu, vừa sạch vừa tiện lợi.

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Ngã Ba Đồng Lộc Dàn Ý &Amp; 2 Mẫu Thuyết Minh Lớp 8 Hay Nhất

Ngã ba Đồng Lộc nằm trên đường mòn Hồ Chí Minh, đoạn qua địa phận thị trấn Đồng Lộc huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Là nơi vô cùng thiêng liêng, trở thành huyền thoại đi sâu vào tiềm thức con người Việt Nam trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Mời các em cùng tham khảo để hoàn thiện bài văn thuyết minh về danh lam thắng cảnh của mình.

1. Mở bài

Giới thiệu về vấn đề cần thuyết minh: di tích lịch sử Ngã ba Đồng Lộc

2. Thân bài

a. Khái quát về di tích lịch sử Ngã ba Đồng Lộc

Vị trí: nằm trên đường mòn Hồ Chí Minh, thuộc địa phận thị trấn Đồng Lộc huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh

Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ: Là giao điểm quan trọng trong tuyến giao thông huyết mạch của quân và dân ta, quân Mỹ tập trung ném bom ở đây nhằm cắt đứt đường hành quân của quân ta.

Là nơi gắn với sự kiện lịch sử 10 nữ thanh niên xung phong anh dũng hy sinh trong chiến tranh kháng chiến chống Mỹ

b. Ngã ba Đồng Lộc thời kỳ chiến tranh

Là ngã ba giao thông huyết mạch của con đường hành quân, vận chuyển của quân ta trong kháng chiến chống Mỹ

Là nơi 10 cô gái trẻ là thanh niên xung phong làm nhiệm vụ canh giữ cao điểm, phá bom, sửa đường thông xe.

Thời kỳ chiến tranh, mỗi ngày nơi đây nhận hàng 15-20 trận bom dội xuống.

Ngày 24/7/1968 quả bom rơi sát miệng hầm tránh bom của 10 cô gái khiến họ đều hy sinh

c. Ngã ba Đồng Lộc ở thời bình

Ngã ba Đồng Lộc trở thành di tích lịch sử thiêng liêng, mang giá trị tâm linh sâu sắc

Cụm tượng đài 10 cô gái thanh niên xung phong được xây dựng từ nguồn quyên góp tự nguyện của viên chức giáo dục, học sinh, sinh viên cả nước.

Trở thành địa điểm thăm viếng thiêng liêng ý nghĩa đối với mọi người dân và khách quốc tế

Di tích lịch sử Ngã ba Đồng Lộc được đưa vào trong phim ảnh và thơ ca, âm nhạc

3. Kết bài

Khẳng định ý nghĩa lịch sử lớn lao và thiêng liêng của di tích lịch sử Ngã ba Đồng Lộc

Ngã ba Đồng Lộc thuộc địa phận xã Đồng Lộc, huyện Can Lộc, có tổng diện tích 107 ha, nằm gọn trong một thung lũng hình tam giác, hai bên đồi núi trọc, ở giữa là con đường độc đạo. Ngã ba Đồng Lộc cách trung tâm thành phố Hà Tĩnh chừng 25km, du khách có thể đi bằng ô tô hay xe máy đều thuận tiện bởi các ngã đường dẫn đến Đồng Lộc đều trải nhựa thênh thang, xen lẫn trong cảnh làng quê đang hồi sinh, thay da đổi thịt hàng ngày sau những năm tháng chiến tranh bị đạn bom kẻ thù tàn phá.

Nhớ lại lịch sử, từ năm 1964, sau khi thất bại liên tiếp trên chiến trường, nhất là sau “chiến lược chiến tranh đặc biệt”, để cứu vãn tình thế đế quốc Mỹ mở rộng “chiến lược chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và leo thang ra đánh phá miền Bắc. Mục tiêu chiến lược của chúng là nhằm cắt đứt sự chi viện của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam, phá hoại công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa của ta ở miền Bắc, đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá.

Thời điểm ấy, Ngã ba Đồng Lộc tập trung một lực lượng lớn gồm bộ đội, công nhân giao thông, công an, lái xe, dân quân du kích nhưng đặc biệt hùng hậu nhất là lực lượng Thanh niên xung phong. Số người có mặt lúc đông nhất lên tới 16.000 người. Họ làm việc với tinh thần “sống bám cầu bám đường”, “chết kiên cường dũng cảm”, không quản ngại hy sinh gian khổ. Còn nhân dân Hà Tĩnh thì nhường nhà, nhường vườn để làm nơi giấu xe, giấu hàng, nơi cứu thương, có gia đình còn sẵn sàng dỡ nhà lấy ván lát đường chống lầy cho xe qua.

Để đảm bảo thông suốt các chuyến xe, kịp thời cho tiền tuyến, hàng trăm, hàng ngàn liệt sỹ trên khắp mọi miền quê hương của Tổ quốc đã gửi lại tuổi thanh xuân tươi đẹp nơi Ngã ba này, đặc biệt sự hy sinh anh dũng của 10 nữ Thanh niên xung phong vào ngày 24/7/1968. Chiến tranh đã đi qua, bao mất mát đau thương cũng lùi vào quá khứ, Đồng Lộc bây giờ đã đổi thay, là địa chỉ xanh tràn trề sự sống, hy vọng vào ngày mai tươi sáng. Sau ngày đất nước thống nhất, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã chọn di tích Ngã ba Đồng Lộc là nơi tiêu biểu cho lòng yêu nước, ý chí, sức mạnh của thế hệ trẻ Thanh niên xung phong trong toàn quốc chiến đấu chống ngoại xâm để đầu tư xây dựng toàn bộ công trình này.

Quốc lộ 15A – một nhánh chính của đường mòn Hồ Chí Minh – đường Trường Sơn năm xưa chạy xuyên suốt khu vực di tích, tên con đường từng được nhắc đến trong lời bài hát rất nổi tiếng Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh “…ai đi xa mô đó biết có nhớ lấy đường về, đường Đồng Lộc, đường Khe Giao, đường Hồng Lam, đèo Ngang, Linh Cảm, cùng bao nhiêu con đường ra mặt trận. Giặc điên cuồng trút hàng vạn bom rơi….”. Đường Đồng Lộc, đường Khe Giao được nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý nói đến chính là trên cung đường 15A này.

Ở vị trí dễ quan sát nhất là Cột biểu tượng lưu niệm của ngành Giao thông vận tải, Cột nằm ngay chính giữa Ngã ba – nơi giao nhau của 3 tuyến đường Lạc Thiện – Đồng Lộc, Khe Giao – Đồng Lộc, Ba Giang – Đồng Lộc.

Du khách tiếp tục đi thẳng về phía trước, bên tay phải là Nhà bia tưởng niệm liệt sĩ Thanh niên xung phong toàn quốc. Nơi đây ghi danh gần 4.000 anh hùng, liệt sĩ Thanh niên xung phong toàn quốc và các anh hùng liệt sĩ hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc. Nhà bia tưởng niệm chính là trang sử hào hùng và bi tráng của lịch sử, là hiện thân của lực lượng “vai trăm cân chân ngàn dặm”, không tiếc tuổi xuân và xương máu vì độc lập tự do của dân tộc. Tại đây, tên tuổi của các anh hùng liệt sĩ Thanh niên xung phong sẽ được lưu danh muôn đời, để lớp lớp con cháu ngưỡng vọng, tôn kính, tự hào.

Để lại nhiều xúc động nhất là tại khu mộ 10 nữ anh hùng liệt sỹ Thanh niên xung phong, họ là một phần của nơi này, một phần của lịch sử, 10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc cùng với những người con trai, con gái đã dựng lên tượng đài chiến thắng vĩ đại không chỉ cho vùng đất Hà Tĩnh mà cho cả dân tộc Việt Nam. 10 cô gái Ngã ba Đồng Lộc đã đi vào lịch sử như một dấu ấn hào hùng của tinh thần quả cảm, chính nghĩa anh hùng cách mạng, cuộc đời của họ đã trở thành điển tích, huyền thoại khi cả sự sống và cái chết đều mang vẻ bi tráng của một thiên anh hùng ca bất tử. Giờ đây họ cùng nằm lại nơi mảnh đất mà họ đã từng chiến đấu, 10 ngôi mộ trắng như hàng quân năm xưa. 10 ngôi mộ không khi nào ngơi khói hương của những người đồng đội, những người chưa từng trải qua chiến tranh, những người khách du lịch, cả những chiến binh Mỹ đã từng ném bom hủy diệt Ngã ba Đồng Lộc, tất cả đến và gửi gắm lòng thành kính cùng nỗi tiếc thương vô hạn trước sự hy sinh anh dũng của 10 cô gái.

Cách Ngã ba Đồng Lộc hơn 50m về phía Đông Bắc là Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ ngành giao thông vận tải, đài tưởng niệm được xây dựng nhằm giáo dục truyền thống cho cán bộ ngành giao thông vận tải nói riêng và nhân dân cả nước nói chung về sự cống hiến, hy sinh to lớn của ngành giao thông vận tải trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của cả dân tộc; cũng như phát huy các giá trị lịch sử Khu di tích Ngã ba Đồng Lộc; giáo dục, ôn lại truyền thống đấu tranh giải phóng dân tộc cho các thế hệ mai sau. Đài tưởng niệm là không gian ghi danh và tưởng niệm 842 anh hùng liệt sỹ ngành giao thông vận tải hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên địa bàn Hà Tĩnh.

Nằm dưới thung lũng, trong công viên tuổi trẻ, du khách sẽ nhìn thấy Tượng đài chiến thắng, nơi ấy ngày xưa chi chít hố bom. Phía trước mặt tượng đài là Ngã ba – nơi giao nhau của 3 huyết mạch và dãy núi Trọ Voi. Sau lưng tượng đài là dãy núi Mũi Mác. Tượng đài chiến thắng Đồng Lộc chính là biểu tượng bất hủ của sức mạnh, ý chí quyết chiến, quyết thắng, tinh thần vươn lên, đạp bằng mọi gian nan, nguy hiểm của lực lượng Thanh niên xung phong, bộ đội, công nhân giao thông, công an, dân quân du kích…Xung quanh chân tượng đài là biểu tượng của khói lửa, đạn bom và các vầng mây biểu trưng cho hòa bình, hy vọng và màu xanh bất diệt của bầu trời Can Lộc. Dưới chân tượng đài là lư hương và bệ đá. Xung quanh chân tượng đài xếp thành hình cánh cung là những bức phù điêu miêu tả không khí sôi nổi, khẩn trương của Thanh niên xung phong, công nhân giao thông, bộ đội, dân quân, lái xe, nhân dân Đồng Lộc và các xã lân cận san đường, lấp hố bom…dẫn đường cho xe qua.

Một hạng mục mà du khách không thể bỏ qua đó là Nhà trưng bày truyền thống Thanh niên xung phong toàn quốc, nơi mà lịch sử Thanh niên xung phong hiện lên tráng liệt nhất, rõ nét nhất, sống động nhất. Gian chính diện có cụm tượng Bác Hồ với bộ đội, Thanh niên xung phong. Những câu khẩu hiệu đã từng là lý tưởng cháy bỏng của thanh niên được đăng đầy cả 3 phòng lớn này. Hiện nay có gần 1.000 hiện vật và tư liệu cho chúng ta thấy cuộc sống lao động, chiến đấu của Thanh niên xung phong trên mọi ngả đường với tinh thần: “Tất cả cho tiền tuyến”, “Địch phá một, ta làm mười”. Một cuộc sống sôi động, đầy chất thép mà cũng đầy lãng mạn. Hiện vật gồm đồ đạc sinh hoạt, dụng cụ chiến đấu của Thanh niên xung phong: Xe bò, xe cút kít, ống nhòm, xắc cốt, bộ đội với nòng pháo cao xạ, công nhân giao thông với máy xúc, máy ủi, những bức ảnh chụp cảnh trong giờ chiến đấu, cảnh đời thường và cả cảnh ca hát của Thanh niên xung phong.

Phòng trưng bày truyền thống Ngã ba Đồng Lộc nằm kề Nhà trưng bày truyền thống Thanh niên xung phong toàn quốc tạo thành một khối liên hoàn và được gọi chung là Bảo tàng Đồng Lộc. Tại đây có hộp hình (sa bàn) tái hiện lại cảnh tượng khốc liệt, điêu tàn của Đồng Lộc gần 50 năm trước cũng như ý chí quyết tâm thông đường, thông xe, tinh thần dũng cảm, can trường của quân và dân ta tại “tọa độ chết” này. Du khách sẽ được tận mắt nhìn thấy những hiện vật rất đáng quý như bức thư của chị Võ Thị Tần gửi mẹ, bộ quần áo của chị Xuân, dây điện và thỏi nam châm phá bom của anh Vương Đình Nhỏ, sổ lý lịch, sổ ghi bài hát của chị Hường, ảnh 10 cô phục chế, ảnh gốc chụp từ máy bay cảnh tượng Đồng Lộc, mảnh bom từ trường, hàng chục quả bom còn sót lại sau chiến tranh, súng 12 ly 7… Ngoài ra còn trưng bày một số hiện vật ngoài trời như: Máy bay AD6, pháo 57, 37, gat 63, 57, máy ủy…

Một công trình kiến trúc uy nghi, lung linh ánh sáng, tọa lạc trên quả đồi Mũi Mác là Tháp chuông. Tháp gồm 7 tầng, 8 mái, cao 37m, trên đỉnh tháp có treo quả chuông nặng 5,7 tấn. Du khách có thể theo bậc cầu thang (hình xoắn ốc) để lên đến đỉnh tháp, ngắm nhìn toàn cảnh Ngã ba Đồng Lộc hay hướng mắt ra xa để chiêm ngưỡng cảnh trời Can Lộc “trời mô xanh bằng trời Can Lộc, nước mô xanh bằng dòng nước sông La, ai về Hà Tĩnh mà quê ta…”.

Đúng vậy, về Hà Tĩnh, về Can Lộc, về Ngã ba Đồng Lộc để được thăm lại chiến trường xưa, nơi các anh, các chị đã từng sống và chiến đấu quên mình để có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho chúng ta như ngày hôm nay. Về đây để được nghe những câu chuyện kể rất đỗi cảm động về cô Tần, cô Cúc, rất mực khâm phục về cô Tám, anh Nhỏ, anh Lý, anh Tuấn, anh Ân,…đi qua cầu Tối, nhìn lại hố bom năm xưa…Tất cả đã làm nên một Đồng Lộc hùng tráng, kiên cường, bất tử.

Khu di tích lịch sử Thanh niên xung phong Ngã ba Đồng Lộc đã được xếp hạng là khu di tích lịch sử cấp Quốc gia đặc biệt, nơi đây đã trở thành cái nôi nuôi dưỡng lòng yêu nước cho lớp lớp thế hệ sinh ra sau chiến tranh, để bất kỳ ai lớn lên đều thấy mình phải có nghĩa vụ sống sao cho xứng đáng với những gì mà thế hệ cha anh đi trước đã làm cho đời sau.

Advertisement

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc, Ngã ba Đồng Lộc đã trở thành một địa chỉ đỏ, mảnh đất thiêng liêng, là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Ngã ba Đồng Lộc đi vào lịch sử như một bản anh hùng ca về quyết tâm sắt đá tất cả vì miền Nam ruột thịt, vì độc lập tự do thống nhất Tổ quốc, vì hòa bình.

Ngã ba Đồng Lộc thuộc địa phận xã Đồng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, nằm trên đường Hồ Chí Minh qua dãy Trường Sơn, là giao điểm của quốc lộ 15A và tỉnh lộ 2 của Hà Tĩnh.

Vào những năm tháng chiến tranh chống Mỹ, mọi con đường từ Bắc vào Nam đều phải đi qua nơi đây. Ngã ba Đồng Lộc có diện tích khoảng 50ha nằm gọn trong một thung lũng hình tam giác, hai bên là đồi núi trọc, giữa là con đường độc đạo. Do địa hình như vậy nên khi bom đạn của địch trút xuống phía nào, đất đá cũng lăn xuống đường cản trở giao thông.

Chính vì sự hiểm yếu và quan trọng đó mà không quân Mỹ liên tục đánh phá Đồng Lộc nhằm cắt đứt huyết mạch giao thông của quân dân ta hướng về chiến trường miền Nam. Nơi này đã đã được mệnh danh là “tọa độ chết”. Người ta đã thống kê rằng, mỗi mét vuông đất nơi đây đã gánh 3 quả bom tấn. Chỉ tính riêng 240 ngày đêm từ tháng 3 đến tháng 10/1968, không quân địch đã trút xuống đây 48.600 quả bom các loại.

Để giữ vững huyết mạch giao thông, quân dân ta cũng huy động tối đa mọi nguồn lực bảo vệ Ngã ba Đồng Lộc, lúc cao điểm ở nơi này có tới 1,6 vạn người – chủ yếu là bộ đội pháo binh và lực lượng thanh niên xung phong phá bom, mở đường.

Tiểu đội 4, thuộc Đại đội 552, tổng đội thanh niên xung phong 55 Hà Tĩnh làm việc thường trực tại ngã ba Đồng Lộc. Trưa ngày 24/7/1968, Tiểu đội 4 gồm 10 cô gái trẻ, do Võ Thị Tần-24 tuổi, làm tiểu đội trưởng được lệnh san lấp hố bom ở khu vực địch vừa thả bom để nhanh chóng thông đường cho xe qua.

Nhận nhiệm vụ xong, các cô đến hiện trường gấp rút triển khai công việc với niềm vui được gửi gắm trên từng chiếc xe đi qua. Họ làm việc không ngơi tay, vừa cười, vừa nói và đã ba lần các cô bị vùi lấp, nhưng đều rũ đất đá đứng dậy tiếp tục làm việc. Đến 16 giờ 30 phút, trận bom thứ 15 trong ngày dội xuống Đồng Lộc. Một quả bom rơi trúng vào đội hình 10 cô gái. Một, hai phút, rồi năm phút trôi qua. Mặt đất mù mịt. Cả trận địa lặng đi rồi tiếng khóc vỡ òa. Các cô đã hy sinh.

10 cô gái Đồng Lộc kiên cường dũng cảm: Võ Thị Tần (24 tuổi), Hồ Thị Cúc (24 tuổi), Nguyễn Thị Nhỏ (24 tuổi), Dương Thị Xuân (21 tuổi), Võ Thị Hợi (20 tuổi), Nguyễn Thị Xuân (20 tuổi), Hà Thị Xanh (19 tuổi), Trần Thị Hường (19 tuổi), Trần Thị Rạng (18 tuổi), Võ Thị Hà (17 tuổi) đã ngã xuống khi tuổi còn quá trẻ.

Mười đóa hoa ấy vừa độ mười tám, đôi mươi – cái tuổi đẹp nhất của tuổi trẻ, của đời người – đã mãi mãi ra đi, mang trong tim bao nhiệt huyết, khát vọng của ước mơ, hoài bão. Mười đóa hoa ấy đã hy sinh cả tuổi thanh xuân, đã kiên cường chiến đấu cho lý tưởng cao đẹp của dân tộc.

Những chiến công của các chị đã đi vào lịch sử, trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của tuổi trẻ Việt Nam. Máu của các chị đã góp phần tô thắm màu cờ của Tổ Quốc.

46 năm đã trôi qua, chiến tranh đã lùi vào quá khứ. Mảnh đất Đồng Lộc năm xưa mang trên mình những hố bom chi chít, giờ đã thành địa chỉ xanh chứa đựng những huyền thoại cao cả, linh thiêng. Đồng Lộc hôm nay đã đổi thay, những con đường bạt ngàn nắng gió, những đồng ruộng thơm mùi lúa thẳng cánh cò bay. Gió đại ngàn vẫn thổi, tiếng chuông ngân vang một góc trời. Nơi đó, 10 cô gái đã hy sinh cho công cuộc thống nhất đất nước.

Tuyến đường vào Nam những năm đó, giờ đã thênh thang rộng mở. Cả một vùng Ngã ba Đồng Lộc đã xanh tươi. Từ cầu Sông Nghẽn đi lên vùng cung đường ngã ba là cả một vùng lúa Đại Lộc, Tiến Lộc, Thanh Lộc, Đồng Lộc… xanh mướt.

Để có được những cánh đồng trải đầy màu xanh của ngày hôm nay, các chiến sĩ đã phải đánh đổi bằng màu đỏ của máu, bằng cả tuổi thanh xuân. Tổ quốc mãi ghi công những người con gái Thanh niên xung phong!

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Chùa Dâu Ở Bắc Ninh (Dàn Ý + 4 Mẫu) Thuyết Minh Danh Lam Thắng Cảnh Lớp 8

Chùa Dâu là ngôi chùa nổi tiếng nằm ở địa phận tỉnh Bắc Ninh. Chùa Dâu còn có tên chùa Cả, Cổ Châu Tự, Diên Ứng Tự. Chùa được thiết kế với 4 dãy thông nhau bao gồm: tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết để ngày càng học tốt môn Văn 8:

1. Mở bài

Giới thiệu về đối tượng cần thuyết minh: chùa Dâu ở Bắc Ninh

2. Thân bài

a. Vị trí địa lý, tên gọi và lịch sử hình thành

Thuộc thôn Khương Tự, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Các tên gọi khác: Cổ Châu tự, Diên Ứng tự, Pháp Vân tự, Thiền Định tự, chùa Bà Dâu

Được khởi dựng từ thế kỉ II đầu Công nguyên (187-226), là trung tâm Phật giáo đầu tiên của nước ta.

Được công nhận di tích quốc gia đặc biệt năm 2013.

b. Quá trình xây dựng và phát triển, đặc điểm kiến trúc

Trải qua nhiều thời kỳ và nhiều đợt trùng tu lớn: thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc, thời phong kiến đến nay.

Xây dựng theo kiến trúc “Nội công – ngoại quốc” với diện tích rộng 1730 m2.

Gồm các hạng mục: tam quan, tiền thất, tháp Hòa Phong, Tam bảo, tiền đường, hậu đường, thượng điện, thiêu hương, nhà khách, vườn tháp.

c. Ý nghĩa đối với Phật giáo nước nhà

Trung tâm Phật giáo đầu tiên cổ nhất Việt Nam

Nằm trong hệ thống Tứ pháp

Lễ hội chùa Dâu 8/4 âm lịch hàng năm

3. Kết bài

Khẳng định vẻ đẹp, ý nghĩa và giá trị văn hóa tâm linh của chùa Dâu

Bắc Ninh là vùng đất cổ kính, nổi tiếng với những làn điệu quan họ ngọt ngào, tha thiết; các di tích chùa, đình, miếu, mạo nhiều bậc nhất cả nước. Bên cạnh chùa Phật Tích, một trong những di tích cổ xưa nhất, có ý nghĩa sâu sắc nhất đối với đời sống tinh thần người Bắc Ninh chính là chùa Dâu, một cổ tự mang đậm dấu ấn Phật giáo vốn rất thịnh hành từ xưa đến nay ở vùng đất này.

Chùa Dâu còn có tên chùa Cả, Cổ Châu Tự, Diên Ứng Tự. Đây là nơi hình thành và phát triển sớm nhất của phật giáo Việt Nam. Chùa Dâu là một danh lam bậc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay gắn với kỳ tích chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp

Chùa Dâu được xây dựng vào buổi đầu Công Nguyên (khoảng từ năm 187 và hoàn thành năm 226) Đây là ngôi chùa lâu đời nhất và gắn liền với lịch sử văn hóa, Phật giáo Việt Nam. Từ buổi đầu sơ khai cho đến tận ngày nay, chùa đã trải qua nhiều lần phục dựng, trùng tu do sự hủy hoại của thời gian và chiến tranh.

Sự phát triển mạnh mẽ của dòng phái Nam Tông từ Ấn Độ truyền bá sang, kết hợp với ảnh hưởng của phật giáo Trung Hoa, khiến chùa Dâu trở thành trung tâm của phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, nơi trụ trì của nhiều cao tăng Việt Nam, Ấn Độ và Trung Quốc đến để nghiên cứu, biên soạn, phiên dịch kinh Phật, đào tạo tăng ni. Một thời, nơi đây được coi như là trung tâm của phật giáo nước ta.

Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, chùa Dâu được xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện.

Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện để tượng Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ), và các hầu cận. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính.

Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2m được bày ở gian giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp.

Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, vị tổ sư sáng lập phái thiền tông ở việt Nam đã từng đến kiết trụ thiền định ở chùa này. Bức tượng được đặt trên một kệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14.

Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ “Hòa Phong tháp”. Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có 4 cửa vòm.

Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán.

Sự phát triển của chùa Dâu còn gắn chặt với truyền thuyết về phật mẫu Man Nương tạo nên nét độc đáo, thể hiện sự hòa quyện chặt chẽ giữa phật giáo và tín ngưỡng dân gian vô cùng đặc sắc của nhân dân Bắc Ninh. Mỗi dịp lễ hội hàng năm với sự diễn lại sự tích của các vị Tứ Pháp, Man Nương. Hội chùa Dâu đã biểu lộ sự sùng bái tín ngưỡng phồn thực cổ sơ của cư dân vùng lúa nước. Lễ hội được tổ chức với những nghi lễ trang nghiêm, trọng thể theo đúng phong tục truyền thống kỷ niệm ngày Phật mẫu Man Nương hạ sinh nữ nhi. Lễ hội có nhiều nghi thức sinh hoạt dân gian và nhiều trò diễn xướng phong phú, hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách thập phương, tín đồ, tăng, ni phật tử đến cúng lễ, dâng hương, dự hội.

Trải qua hàng ngàn năm, phần “lễ” của hội đã ít nhiều bị mai một, mặc dù vậy chúng ta vẫn nhận thấy chân nét đẹp, giá trị văn hóa truyền thống phản ánh đời sống tín ngưỡng đa dạng, sự sáng tạo phong phú của người xưa còn được lưu giữ đến ngày nay.

Di tích lịch sử chùa Dâu đi vào đời sống dân gian từ bao đời nay. Mặc dù ngày nay, di tích chùa Dâu không còn như xưa nữa nhưng ý nghĩa và giá trị của nó vẫn còn nguyên vẹn trong lòng con người:

Trong lòng người Việt Nam, mỗi ngôi chùa đều có vị trí vô cùng quan trọng. Đó là bởi vì mỗi ngôi chùa luôn gắn liền với tín ngưỡng thờ cúng của nhân dân ta. Vào đầu năm mới, mọi người thường có thói quen đi chùa cầu may mắn. Một trong những điểm đến thu hút nhiều khách du lịch chính là chùa Dâu. Đây là một ngôi chùa với nhiều giá trị lịch sử văn hóa.

Chùa Dâu hay còn được biết đến với một tên gọi khác đó là chùa Diên Ứng, Pháp Vân, Tân Cổ tọa lạc tại xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách thủ đô Hà Nội khoảng 30 km. Đây là một ngôi chùa có lịch sử hình thành xa xưa nhất trong những ngôi chùa của Việt Nam, được khởi lập vào năm 187 và hoàn thành năm 226 vào thế kỷ 2 sau Công Nguyên. Chùa có tên gọi chùa Dâu là bởi chùa nằm ở vùng dâu, tức khu vực Luy Lâu thời thuộc Hán. Trải qua thời gian, đến năm 1313 chùa được xây dựng lại và được tiếp tục trùng tu.

Về kiến trúc, chùa được thiết kế với bốn dãy thông với nhau bao gồm: tiền đường, thiêu hương và thượng điện. Tiền đường là nơi thờ Hộ Pháp, tám vị Kim Cương. Thiêu Hương thờ tượng Cửu Long và các vị Diêm Vương, Tam Châu Thái tử và Mạc Đĩnh Chi. Khu Thượng điện được sử dụng thờ Bà Dâu và Bà Đậu. Tại khu chùa phía sau có thờ các tượng như Bồ Tát, Tam Thế Đức Ông, Thánh Tăng…Đặc điểm của những pho tượng thờ ở nơi đây vô cùng uy nghi và trầm mặc. Ấn tượng nhất có thể nói đến là tượng Bà Dâu, tượng có độ cao khoảng gần 2m, màu đồng với gương mặt đẹp và nốt ruồi to đậm giữa trán. Bên cạnh tượng Bà Dâu là hai tượng Kim Đồng Ngọc Nữ. Giữa sân của ngôi chùa chính là Tháp Hòa Phong, đây là tháp được Mạc Đĩnh Chi cho xây dựng gồm chín tầng tượng trưng cho ngọn núi vũ trụ. Trải qua ra sự tàn phá của thời gian cũng như những thăng trầm của lịch sử, hiện nay tòa tháp này chỉ còn ba tầng, tuy nhiên vẫn đem lại cảm giác uy nghiêm vững chãi. Mặt trước tháp là bảng khắc tên Hòa Phong, bên trong khu tháp này có một chuông bằng đồng và một chiếc chuông khánh được đúc vào những năm 1793 và 1817. Bên cạnh đó còn có tượng Thiên Vương trấn ở bốn góc tháp. Đằng trước tháp có một bia đá và bên trái có tượng một con cừu đá.

Hàng năm, ban quản lý khu di tích chùa Dâu đều tổ chức những lễ hội rất long trọng. Hội chùa Dâu được mở trong ba ngày từ mùng 7 đến mùng 9 âm lịch. Tại đây có một số hoạt động như rước kiệu Phật và những trò chơi dân gian truyền thống như múa trống, cướp nước, ngoài ra còn có một số hoạt động văn hóa bên lề như hát chầu văn hát chèo…

Chùa Dâu thu hút rất nhiều du khách bởi giá trị lịch sử và văn hóa lâu đời. Người dân khắp mọi nơi đổ về chùa Dâu như một cuộc hành hương nhằm cầu mong phúc lành. Một yếu tố khiến chùa Dâu thu hút rất nhiều du khách du lịch đó chính bởi chùa là nơi rất linh thiêng. Trong lịch sử, vua Lý Thánh Tông khi về chùa Dâu cầu con đã gặp được Nguyên Phi Ỷ Lan. Đến với chùa Dâu, ngoài việc được chiêm ngưỡng ngôi chùa cổ kính, ta còn có cơ hội chiêm ngưỡng những bức tượng được đúc công phu. Chùa Dâu mang giá trị lịch sử vì ngôi chùa này gắn liền với rất nhiều những truyền thuyết dân gian về Mạc Đĩnh Chi hay về Hai Bà Trưng,….

Đến với chùa Dâu là đến với một nơi thanh lọc để tâm hồn ta trở nên hướng thiện hơn. Dù bị tàn phá bởi thời gian như thế nào chăng nữa thì ngôi chùa này vẫn trở thành một điểm đến du lịch, một niềm tự hào của người dân Kinh Bắc, cũng là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Mỗi chúng ta cần có ý thức bảo vệ giữ gìn để ngôi chùa ấy có thể linh thiêng, còn mãi…

Có ý kiến cho rằng: Trong nền văn hóa cổ nước ta có rất nhiều viên ngọc bị che lấp bởi lớp bụi thời gian mà nhiệm vụ của chúng ta là phải tìm tòi, bảo vệ cho nó sáng mãi. Khu di tích lịch sử văn hóa chùa Dâu là một viên ngọc như thế.

Xây dựng từ những năm đầu Công nguyên, chùa Dâu lại mang một giá trị đặc biệt của trung tâm truyền giáo đạo Phật đầu tiên ở nước ta. Chùa Dâu nay thuộc xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xưa thuộc Tống Khương, huyện Luy Lâu, quận Giao Chỉ.

Từ xa xưa người dân nơi đây thường sống bằng nghề trồng dâu nuôi tằm, dân gian vẫn thường gọi là vùng dâu hoặc kẻ dâu. Chất mộc mạc thôn dã và giản dị nơi đây đã góp phần không nhỏ tạo nên nét đẹp dân gian tự nhiên của chùa. Khoảng đầu Công nguyên một số nhà sư từ Ấn Độ đi theo đường biển vào Luy lâu để truyền đạo. Nhanh chóng chùa đã trở thành một trung tâm truyền giáo đạo Phật đầu tiên để từ đây lan rộng sang Lạc Dương (Trung Quốc) và một số nơi khác. Bấy nhiêu thôi cũng đã đủ làm cho chúng ta tự hào và trân trọng bởi ý nghĩa của giá trị văn hóa nơi đây.

Nhưng không dừng lại ở đó, chùa còn đào tạo được 500 vị tăng ni, dịch được 15 bộ kinh, làm được hàng chục bảo tháp có các vị cao tăng nổi tiếng đã đến đây trụ trì như Mâu Bát, Pháp Hiền,:) Chi Y Cương Nương, Khâu Đà La… Ban đầu chùa Dâu chỉ là một cái am nhỏ, sau phát triển lên thành một ngôi chùa với tên gọi đầu tiên là Cổ Châu tự (nghĩa là một viên ngọc quý). Đến thế kỷ thứ II sau Công nguyên (khoảng 187-226, thời Sĩ Nhiếp) hệ tư pháp được ra đời chùa Dâu thời bà Pháp Vân nên gọi là Pháp Vân tự.

Vào thế kỷ XIV (1313), có thể nói đây là đợt hưng công lớn nhất. Dưới đời vua Trần Nhân Tông, Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đã cho xây lên chùa to lớn như ngày nay: Chùa có hàng trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp mà bao đời nay khách từ muôn phương vẫn về đây chiêm ngưỡng. Hành động ấy, việc làm ấy của ông cha ta thời xưa đã thể hiện ý thức dân tộc, sự tôn trọng, đề cao văn hóa, bản sắc dân tộc.

Chùa Dâu được coi là nơi rất thiêng liêng nên đã có lần chùa được gọi là Diên Ứng tự (tức cầu gì được nấy). Điều đó đã được minh chứng qua các đời vua của triều đại xa xưa cũng từng về chùa Dâu như vua Lý Thánh Tông cầu tự (tức cầu con) và gặp được nguyên phi Ỷ Lan khi đi thuyền trên sông Dâu. Năm Đinh Tị 1737 có rất nhiều vua chúa cung tần mỹ nữ qua lại lễ Phật cầu đảo thăm chùa, vãn cảnh,…

Với diện tích khoảng 1730m2 trên khu đất rộng bằng phẳng nằm cạnh sông Dâu, chùa được xây dựng mang đậm phong cách nghệ thuật, kiến trúc của thời Lý, Trần do được tu sửa vào thời kỳ này. Quan trọng nhất là tháp Hòa Phong, tháp có chín tầng song trải qua thời gian lịch sử lâu dài nay chỉ còn ba tầng có chiều cao khoảng 15m. Chân tháp hình vuông, trong lòng tháp có bốn bệ gạch bốn bên, trên mỗi bệ là một tượng hộ pháp bằng gỗ cao 1,6m. Ở tầng hai của tháp có biển đá khắc chữ “Hòa Phong tháp”. Đặc biệt hơn nữa tháp dùng để đặt các xá lị, bên trên là một chiếc khánh đồng và một chiếc chuông đồng lớn có niên đại từ 1893. Màu thời gian đã bao phủ lên tháp những lớp rong rêu xanh màu cổ kính. Song có thể nói giá trị của tháp Hòa Phong trong quần thể di tích chùa Dâu là không nhỏ bởi đã gây sự chú ý đặc biệt của khách du lịch thăm quan từ bốn phương về đây.

Đến với chùa Dâu ngoài cảnh quan đồ sộ, chúng ta còn được chiêm ngưỡng những pho tượng quý giá như Pháp Vân, Kim Đồng, Ngọc Nữ, những bức phù điêu chạm khắc trên những bức trống, cốn, giá chiêng mà ngày nay ít khi có được. Tất cả đều được tạc và rèn đúc rất tinh xảo trong bàn tay các nghệ nhân đời xưa. Tiêu biểu đó là tượng Pháp Vân cao 1m85cm tạo trong thế ngồi ở tòa sen toàn thân sơn màu cánh dán. Với chân dung tai to, lông mày cong lá liễu, cổ cao ba ngấn tay phải dơ 5 ngón lên trời, trong lòng bàn tay có một viên ngọc sáng. Nét thanh thoát, mềm mại của bức tượng đã toát lên vẻ nhân từ, độ lượng của nhà Phật thiêng liêng, cao quý. Ta còn nhận thấy rằng tín ngưỡng phật giáo Ấn Độ đan xen trong tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam như thờ các vị thần: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện. Gửi gắm vào đó là những mong ước cho mùa màng bội thu, cơm no áo ấm cho mọi chúng sinh của nhân dân khi trời đất được mưa thuận, gió hòa.

Một điểm đáng nói nữa trong công trình kiến trúc của chùa Dâu là hình trạm trổ trên đá. Đó là phong cảnh thiên nhiên chim muông, hoa lá, đặc biệt là rồng. Theo một số nhà nghiên cứu thì một số hiện vật bằng đá, gạch đất nung trang trí có hình vẽ rồng phần lớn là kiến trúc nghệ thuật rồng có niên đại vào thời Lý Trần. Con rồng không chỉ là biểu tượng văn hóa quý trong di sản văn hóa vật thể mà còn hiện diện rất phong phú trong di sản văn hóa phi vật thể. Nó đi vào đời sống hôm nay như một nhu cầu văn hóa không thể thiếu trong các lễ hội. Ngày nay kiến trúc của chùa Dâu vẫn giữ nguyên như cũ: Nhà tiền thất, tháp Hòa Phong, Tiền Đường, tòa Tam Bảo, Thượng Điện, Hạ Điện, Hậu Đường, hai dãy hành lang,… Tuy nhiên thì cầu chín nhịp và Điện Tam quan đã không còn. Hằng năm cứ vào ngày 8 tháng 4 âm lịch, không ai bảo ai người dân từ thập phương đều kéo về nơi đây lễ Phật cầu may. Đó cũng là ngày hội chính của chùa Dâu, ngày mà bà Man Nương sinh hạ.

Hội Dâu mở trong 3 ngày: mồng 7, mồng 8, mồng 9 âm lịch với một quy chế rất chặt chẽ. 11 kiệu Phật được rước ra ngoài trời, đi khắp 12 làng xã trong Tổng Khương. Các kiệu Phật được phong áo rất lộng lẫy uy nghi. Gắn với lễ hội còn có các trò chơi dân gian như thi cướp nước, múa trống, múa gậy, múa sư tử. Ban đêm có hát chầu văn, hát chèo, hát trống quân,… Đi theo các pho tượng rước còn có các tán, long, tù và, trống chiêng… tất cả đã tạo nên cho ngày hội thêm đông vui, náo nhiệt.

Về với chùa Dâu ta còn được nghe kể rất nhiều chuyện, truyền thuyết dân gian về Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, về sự tích giữa ông Khâu Đà La và bà Man Nương đầy ly kỳ, hấp dẫn. Trong hiện tại và tương lai chùa Dâu mãi là một nơi mang đậm màu sắc dân tộc Việt Nam, là một nơi mang nhiều ý nghĩa lịch sử sâu sắc. Không biết tự bao giờ, hội Dâu đã thành lịch trong dân gian với những câu ca quen thuộc:

Đồng thời chùa Dâu – hội Dâu đã trở thành tiếng gọi tâm linh đối với tất cả mọi người:

Ngược dòng lịch sử, bóc trần từng lớp bụi thời gian ta mới thấy hết được ý nghĩa và vẻ đẹp truyền thống của khu di tích văn hóa chùa Dâu. Tôi tin rằng cả ngày hôm nay và mai sau viên ngọc quý đó sẽ mãi được trường tồn và bảo vệ bởi những lớp người tiến bộ của xã hội chủ nghĩa. Để chùa Dâu xứng đáng với tên gọi là một trung tâm phật giáo đầu tiên của nước ta. Niềm tự hào ấy không chỉ của những người dân Kinh Bắc mà của cả dân tộc, của cả trang sử vẻ vang trong nét đậm đà bản sắc quê hương.

Advertisement

Lễ hội là tín ngưỡng văn hoá của mỗi dân tộc. Hầu như làng, xã nào cũng có lễ hội được tổ chức vào đầu xuân. Mọi người dân Thuận Thành, Bắc Ninh thường có câu ca:

Câu ca dao như một lời nhắc nhở các tín đồ phật giáo hãy nhớ về hội Dâu được tổ chức vào đầu xuân hàng năm.

Hội Dâu được tổ chức vào mùng 8 tháng 4 âm lịch hàng năm. Chùa Dâu là một ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, được xây dựng vào những năm đầu thế kỉ XV. Mặc dù vậy chùa Dâu vẫn giữ được những nét nguyên bản từ khi được xây dựng tới nay. Hàng năm, chùa Dâu thu hút rất nhiều tín đồ đến thắp hương, đặc biệt là vào dịp lễ hội. Vào mỗi dịp lễ hội, người dân háo hức tổ chức sửa sang chùa chiền. Ngay từ chiều mùng 7 đã có lễ rước các bà Dâu, bà Đậu, bà Dàn, bà Keo mà theo truyền thuyết bốn bà được tạc từ một cây dâu, chị cả là bà Dâu nên chùa Dâu được xây dựng lớn nhất. Đặc biệt vào ngày mồng 7, các vãi đến để cúng, quét dọn và làm lễ rửa chùa. Ngày hội chính diễn ra rất sôi động, náo nhiệt.

Mọi người đến đây với lòng thành kính, kính mong đức phật ban cho sự an lành, ấm no. Chùa có rất nhiều gian, điện, đặc biệt có pho tượng Kim Đồng – Ngọc Nữ đạt đến chuẩn mực nghệ thuật cao với các tỉ lệ của người thật. Hành lang hai bên có những pho tượng với nhiều tư thế, nét mặt khác nhau. Người ta đến lỗ hội không chỉ để thắp hương, cầu an mà còn để vui chơi, đón không khí ngày xuân. Có rất nhiều trò chơi được tổ chức trong lễ hội như: đu quay, hát quan họ đối đáp, giao duyên giữa các liền anh, liền chị dưới thuyền rồng với những trang phục mớ ba, mớ bảy cổ truyền. Khắp sân chùa là những hàng bán đồ cúng, những nén hương trầm, hay những đồ chơi dân gian cho trẻ em như sáo, trống… hoặc chỉ là những bông lan thơm ngát. Tất cả tạo ra một không khí cộng đồng ấm cúng. Mọi người quên đi sự bận rộn, quên đi sự bon chen, thách thức để nhớ tới đức phật cùng sự thánh thiện, nhớ tới cõi bình an của tâm hồn. Khoảng 7 giờ sáng ngày 8/4, người ta đã nghe thấy tiếng chiêng, tiếng trống và tiếng cúng tế dâng sớ cầu mong bình an, lạy tạ các vị thánh thần, phật pháp của đội tế lễ tứ sắc chùa lập ra.

Đặc biệt, ở lễ hội Dâu thờ Tứ Pháp là Pháp Vân (bà Dâu), Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Lôi. Sau khi các cụ làm lễ xong, đoàn rước từ chùa Tổ bắt đầu quay về, hàng đoàn người kéo nhau đi theo hộ tống. Người đi đầu cầm bình nước, người thứ hai dâng hương, tiếp đó là đoàn kiệu được những trai tráng của lồng khiêng. Họ mặc những trang phục như quân tốt đỏ thời xưa, theo sau là các bà mặc áo nâu đội sớ. Người cầm nước vừa đi vừa cầm cành trúc vẩy nước vào những người xung quanh như ban sự may mắn cho mọi người. Người ta quan niệm rằng ai được vẩy nước vào sẽ may mắn, được Phật ban phước quanh năm và được Phật phù hộ, bảo vệ. Khi hội tan, mọi người về rồi thắp hương ở ngoài sân thờ nhớ lời hẹn gặp năm sau. Nhưng lạ lùng hơn hầu như năm nào sau hội trời cũng mưa và người dân cho đấy là lễ tẩy chùa, ở một khía cạnh nào đó thì đây được coi như một điều linh nghiệm huyền bí.

Lễ hội thể hiện trình độ tổ chức cao, sự kết hợp giữa làng xã và ý thức cộng đồng, cuốn hút khách thập phương với những nét nghệ thuật, văn hoá đặc sắc, phong phú. Đối với Bắc Ninh, cái nôi của Phật giáo thì đây là dịp thể hiện sự tài hoa, tinh tế, lịch lãm trong văn hoá ứng xử, giao tiếp. Là một người con của Bắc Ninh, em cảm thấy tự hào về truyền thống của quê hương mình và em sẽ luôn có ý thức bảo vệ và gìn giữ những nét văn hoá ấy, đặc biệt là những lễ hội truyền thống mang đậm nét văn hoá dân tộc vào những ngày đầu xuân.

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Cây Đào Ngày Tết Dàn Ý &Amp; 14 Bài Văn Thuyết Minh Hay Nhất

Thuyết minh về cây đào ngày Tết hay nhất

Dàn ý thuyết minh cây hoa đào (2 mẫu)

Thuyết minh về cây hoa đào ngắn gọn (4 mẫu)

Thuyết minh về cây hoa đào đầy đủ (10 mẫu)

Dàn ý thuyết minh cây hoa đào

I. Mở bài:

– Dẫn dắt giới thiệu đến vấn đề mà đề bài yêu cầu: Thuyết minh về hoa đào.

Ví dụ:

II. Thân bài:

1. Nguồn gốc và xuất xứ của hoa đào

– Nhiều người cho rằng cây hoa đào có nguồn gốc xuất phát từ Ba Tư (Persia) bởi tên khoa học của cây hoa này là “Persica”. Tuy nhiên, ý kiến này lại chưa có bằng chứng xác thực để chứng minh.

– Nhiều người thống nhất một điều rằng cây hoa đào lại có nguồn gốc từ Trung Hoa xưa (Trung Quốc ngày nay). Có lẽ việc giả thuyết cây hoa đào có nguồn gốc từ Ba Tư là do hoa đào được đưa vào đất nước này qua “con đường tơ lụa” vào khoảng thiên niên kỷ 2 TCN. Người ta cho rằng người Trung Hoa đã biết trồng đào từ rất nhiều năm về trước.

2. Hình dáng và các bộ phận của hoa đào

– Rễ đào: Là dạng rễ cọc, có khả năng cắm sâu vào lòng đất giúp cây chịu hạn tốt. Bởi vậy, những cây đào chơi Tết ta thường hay thấy không cần tưới nước thường xuyên mà vẫn tươi.

– Thân đào, cành đào: Thân, cành thường có màu xanh, màu nâu sáng hoặc màu đỏ tía. Ngoài ra còn có một số loại hoa đào có thân màu trắng mốc như đào phai, đào mốc chẳng hạn. Thân cây thường to cỡ khoảng cán chổi hoặc to hơn một chút tùy theo loại.

– Lá đào: Lá nhỏ, màu xanh non mơn mởn. Đầu lá hơi nhọn, hình mũi mác.

– Nụ hoa: Nụ hoa nho nhỏ như hạt sen, màu hồng xinh đẹp. Đế màu xanh nhạt ôm lấy nụ hoa. Sắc hồng tùy theo từng loại hoa mà đậm nhạt khác nhau.

– Hoa đào: Đây là bộ phận đẹp nhất của cây. Hoa đào có trung bình khoảng từ 5 cánh đến hơn 20 cánh tùy theo từng giống hoa. Màu sắc cũng đa dạng khác nhau. Cánh hoa có nhiều hình dạng: hoa cánh đơn, cánh mai, cánh cúc… Những cánh hoa ôm ôm lấy nhau, che chở nhụy hoa bên trong. Mỗi bông hoa đào giống như một đốm lửa nhỏ ngày xuân, giữa cơn mưa phùn sáng lên một sắc rực rỡ.

– Quả đào: Thuộc loại quả hạch, phần thịt mềm có hai màu là màu trắng và màu vàng. Vị quả đào có thể chua, có thể ngọt tùy vào từng loại. Lớp vỏ ngoài có sắc xanh hoặc sắc hồng đỏ, có một lớp lông mỏng.

3. Phân loại hoa đào

– Đào bích: Loại đào phổ biến nhất hiện nay. Cánh hoa màu đỏ, cánh to và có nhiều.

– Đào thất thốn: Dáng cây rất bé, thân cây xù xì, mốc meo. Loài hoa này rất đẹp, có hai màu là màu nhung đỏ và màu hồng phai. Hoa có hương thoang thoảng. Khi rụng xuống cũng không rụng cánh mà ở nguyên trên đài. Hoa mọc thành từng chùm rất đặc biệt.

– Đào phai: Cánh hoa màu hồng, phần rìa cánh hơi nhạt dần. Một bông cũng có khá nhiều cánh.

– Đào bạch: Giống như tên gọi của nó, cánh hoa có màu trắng, nhụy hoa màu vàng sáng. Số cánh hoa trong một bông không nhiều.

– Đào mốc, đào đá: Thân cây xù xì. Đây là loại đào phai mọc trong rừng sâu, núi cao…

4. Ý nghĩa của hoa đào

– Trong văn hóa, cây hoa đào và cây đào đã xuất hiện từ lâu, trở thành loài hoa phổ biến. Trong văn hóa cổ truyền Việt Nam, hoa đào là loại cây rất nhiều người mua về đặt trong nhà, với mong muốn sắc hồng của hoa đào hứa hẹn một năm mới tốt lành, may mắn.

– Trong văn học, hoa đào xuất hiện từ những câu ca dao của người xưa, đến những câu thơ, câu ca của nhiều nhà thơ, bậc hiền triết.

– Quả đào còn có giá trị kinh tế trong việc xuất khẩu. Đồng thời, đào cũng là loại hoa quả được ưa chuộng, trở thành nguyên liệu trong quá trình làm các món tráng miệng.

5. Cách chăm sóc và gieo trồng hoa đào

– Để có một cây hoa đào đẹp, cần chú ý đến rất nhiều yếu tố như nước, ánh sáng, gió cũng như thời gian gieo trồng.

– Biện pháp chăm sóc cũng rất quan trọng nữa.

III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của bản thân về vẻ đẹp và ý nghĩa của hoa đào.

…..

Thuyết minh về cây hoa đào ngắn gọn Bài làm mẫu 1

Như một điều tất yếu, mỗi khi những cánh hoa đào hé nở là ánh nắng xuân ấm áp cũng hiện về cùng đàn én từ phương Nam, nhưng ông đồ già lại bày mực tàu giấy đỏ để viết những câu chúc năm mới. Hoa đào, từ bao giờ đã trở thành biểu tượng của mùa xuân.

Cây hoa đào có danh pháp khoa học là Prunus persica. Tên persica có lẽ có từ niềm tin ban đầu của người châu Âu cho rằng đào có nguồn gốc ở khu vực Ba Tư nay là Iran. Nguồn gốc hoa đào được khẳng định nhiều là bắt đầu từ Trung Quốc và được đưa vào Ba Tư theo con đường tơ lụa vào khoảng thời gian ban đầu của lịch sử nhân loại. Hiện nay, loại cây đã rất phổ biến ở nhiều nước trên thế giới có yêu cầu về độ lạnh phù hợp. Ở châu Á, đào thường được trồng ở Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam…

Cây hoa đào đẹp có hình dáng riêng, dễ nhận dạng so với những cây khác. Cây thuộc loại cây thân gỗ, nhỏ, màu nâu thẫm. Dáng cây hoa thấp, cao từ 1-3m. Cành cây nhỏ như cái đũa, lá có hình mũi mác, mọc so le với nhau. Mùa xuân chính là mùa hoa đào nở. Hoa có thể màu hồng đậm, hồng phớt hay màu hồng nhạt. Các cánh hoa mỏng, nhẹ, được xếp tầng lên nhau, ra hoa trước khi ra lá. Hoa đào có năm cánh thắm, ở giữa là nhị hoa màu vàng tươi trông rất bắt mắt. Cả cánh hoa và nhị hoa được nâng đỡ bởi sắc xanh non của màu lá tạo nên sự hài hòa về màu sắc cho cây.

Quá trình để một cây đào sinh trưởng và phát triển, có được thế và hoa đẹp, chưa bao giờ là dễ dàng. Tháng giêng, những cây đào đẹp đã chơi rồi hoặc những cây giống đẹp được giữ lại, người ta tỉa bớt cành lá đi. Trong quá trình chăm sóc, cây bắt đầu được uốn để tạo dáng trong 10 tháng. Đến tháng 11, lá đào được tuốt bớt để cây tập trung trổ hoa. Tùy vào thời tiết sẽ hãn, thúc, thiến cho hoa nở đúng dịp tết. Đến khi chọn đào về nhà, tùy loại đào mà có cách chơi khác nhau. Với đào cành, người ta hơ gốc trên ngọn lửa than hồng để nhựa không bị chảy ra và hoa lâu tàn. Với đào cây, khi đánh cây lên, chú ý không làm đứt rễ cái, không tưới quá nhiều nước vì đào không ưa nước. Khi chọn mua đào, tùy từng không gian mà chọn đào to hay nhỏ nhưng tán phải tròn, hoa dày và cây phải cân đối; nên mua cách tết 3-4 ngày để hoa tươi lâu.

Tùy vào các tiêu chí như màu sắc, hình dáng hay địa hình trồng mà hoa đào được chia thành nhiều loại khác nhau. Về màu sắc, ta có: Đào bích và đào phai, đào bạch. Đào bích là loại đào có cành tròn như chiếc ô, hoa màu hồng thẫm, nụ và cánh hoa chen chúc nhau. Đào pha có thân và lá giống đào bích nhưng hoa ít cánh hơn, màu phơn phớt hồng, đượm vẻ thanh tao, kín đáo. Đào bạch lại có hoa trắng như tuyết và có mùi hương thoang thoảng. Nếu xét cánh hoa, ta có đào đơn và đào kép. Đặc biệt, một giống đào khá được yêu thích hiện nay, đó là đào rừng. Cây có nhiều ở vùng biên giới phía Bắc. Thân cây xù xì, rêu mốc, ít hoa và nở muộn nhưng lại thể hiện được sự hoang sơ và thường chỉ chơi cành đào, ít ai chơi cây cả. Hay một loài đào nghệ thuật mang tên: đào thế- loại đào được trồng và chăm sóc hàng chục năm thì cây mới có dáng đẹp. Các nghệ nhân thường tạo thế long, phượng, thế trực hay thế ngoảnh cho cây.

Những làng trồng đào nổi tiếng ở miền Bắc như làng đào Nhật Tân. Đây là làng nghề đã có mấy trăm năm tuổi, chuyên trồng đào cung cấp cho miền Bắc.

Hoa đào được chọn là hoa của mùa xuân, của ngày tết vì những ý nghĩa của nó. Hoa đào là biểu tượng của sự viên mãn, hòa hợp giữa màu xanh của sự sống ở lá, màu hồng đỏ của lộc ở hoa và màu vàng tươi mới ở nhị. Đào về mang không khí ấm áp của mùa xuân và cho người ta cảm giác an yên, tự tại. Trong tâm thức của người Trung Quốc cũng như người Việt ở miền Bắc, đào còn một ý nghĩa nữa. Chuyện kể rằng: Ở phía Đông, có hai vị thần: thần Trà và thần Uất Lũy ngự trên cây hoa đào khổng lồ. Ma quỷ rất sợ uy vũ của hai vị thần nên sợ luôn cả cây hoa đào. Ngày cuối năm, khi hai vị thần phải lên chầu Ngọc Hoàng thì ma quỷ lại đến sách nhiễu nhân dân. Vì thế, người dân bảo nhau trồng hoa đào ngày tết, để trong nhà tránh ma quỷ. Từ đó, trong những ngày tết, nhà nào cũng chơi hoa đào như một tục lệ truyền thống. Hoa đào còn xuất hiện trong những giáo lí nhà Phật, như một sự thoát độ.

Trong cuộc sống hiện đại, những lễ tết truyền thống đã thay đổi và được giản lược khá nhiều. Nhưng một cành đào, một sắc đào trong nhà thì vẫn không thể thiếu. Bởi có đào mới gọi là Tết.

Bài làm mẫu 2

Hà Nội vào xuân náo nức lòng người. Ngày Tết không thể thiếu hoa đào – một loài hoa biểu tượng cho mùa xuân và sức sống bất diệt của miền Bắc.

Tiết xuân se lạnh, những hạt mưa xuân giăng nhè nhẹ tô thắm cho hoa, làm cho chồi non lộc biếc nở rộ trong các vườn hoa Nhật Tân, Quảng Bá, Thụy Khuê, Ngọc Hà. Hoa theo các cô hàng hoa tràn vào ba sáu phố phường Thủ đô.

Người ta chuộng chơi đào ngày Tết có lẽ vì hoa đào có màu hồng đỏ mang lại may mắn, phúc lộc đầu năm. Các cụ ngày xưa thường bảo cắm cành đào trong nhà là cản được gió độc, đuổi tà khí ra ngoài. Cây đào chỉ trồng được ở miền Bắc, hoa nở vào mùa xuân nhưng muốn cho hoa nở đúng thời vụ thì lại là một vấn đề phức tạp.

Nó đòi hỏi nhiều kinh nghiệm của người trồng hoa. Muốn có hoa đào chơi Tết, tháng mười một, cây đào đã phải chịu đớn đau, bị bỏ đi hết lá, để nhựa cây tích tụ vào thân làm nụ. Tùy theo thời tiết nóng hay rét nhiều mà người trồng đào phải thúc hay hãm (Thúc là bón cho cây phát triển nhanh hơn. Hãm là khía nhiều vòng quanh thân cho nó phát triển chậm lại).

Thường hoa đào là một trong các thú chơi dân gian của người Hà Nội. Người chơi đào thích đào Sapa vì cái vẻ xù xì rêu mốc của cành, loáng thoáng nụ và hoa được ăn trong lá thể hiện một sức sống mãnh liệt chiến thắng mọi thử thách. Từ xưa, hoa đào đã đi vào thơ ca làm xúc động lòng người. Trong tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nhiều lần nói tới hoa đào, như:

“Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”

Mùa xuân năm Kỷ Dậu, vua Quang Trung sau khi đại thắng quân Thanh đã mang cành đào từ Thăng Long vào Phú Xuân tặng công chúa Lê Ngọc Hân – vợ yêu của mình để báo tin chiến thắng.

Trong lịch sử dược học Á Đông, hoa đào được dùng sắc uống lấy làm thuốc chữa bệnh thủy thũng và bí đại tiện. Nhân hạt đào có chứa dầu béo amygdalin và men amusing. Danh y Tuệ Tĩnh đã nhiều lần nhắc đến tên các vị thuốc có hoa đào trong cuốn sách nổi tiếng “Tam dược thần hiệu”.

Tết miền Bắc có hoa đào mới là Tết. Cành đào là vẻ đẹp mùa xuân giống như trong Nam có mai vàng. Nhiều nhà có điều kiện có thể chơi một cành đào ghép mận ba tầng, giá trị bằng vài năm tiền lương, không thì một vài cành đào cũng xong nhưng không thể thiếu. Thiếu hoa đào cũng tẻ nhạt như thiếu bánh chưng xanh, câu đối đỏ, tràng pháo hồng.

Hoa đào không chỉ là vật trang trí, làm cảnh bình thường. Nó còn tượng trưng cho sự may mắn, phúc lộc. Người Việt Nam quan niệm có cành đào trong nhà thì sẽ xua đuổi được tà ma, ám khí. Vì thế, trong những ngày Tết, dù bận đến mấy, ai cũng cố mua cho gia đình một cành đào.

Mùa xuân thật kì lạ! Đúng là muôn hồng nghìn tía, cái đẹp đến từng nhà, từng người và hoa đào chính là phần thưởng xứng đáng của thiên nhiên, đất trời, ai cũng có thể hưởng và chắc chắn hoa đào sẽ còn lại mãi với thời gian như lời thơ của Chế Lan Viên:

Bài làm mẫu 3

Vào dịp Tết Nguyên Đán, nếu hoa mai là đặc trưng của mùa xuân phương Nam thì hoa đào lại tiêu biểu cho mùa xuân phương Bắc. Tết đến, chắc chắn các bạn sẽ bị cuốn hút bởi vẻ đẹp mê hồn của những cành đào, cây đào được bàn tay con người chăm chút kĩ lưỡng và trân trọng.

Cây hoa đào xuất hiện ở nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản… Trước kia, ở Việt Nam, cây đào chỉ trồng được từ vùng Nghệ – Tĩnh trở ra. Làng Nhật Tân, ngoại thành Hà Nội là xứ sở của hoa đào. Ngày nay, ở Đà Lạt (miền Nam) cũng đã trồng được loại đào ghép nhưng không đẹp bằng đào Hà Nội.

Cây hoa đào có nhiều giống, phổ biến nhất là đào bích, bông hoa nhiều cánh màu hồng thẫm, phủ từ gốc tới ngọn. Đào phai hoa màu hồng nhạt, đào bạch hoa màu trắng, tương đối khó trồng. Đào thất thốn cây thấp, hoa nhỏ màu độ thắm, thường được trồng vào chậu và uốn thành các dáng thế theo ý muốn. Các giống đào này đều chỉ cho hoa chứ không cho quả.

Cây đào ưa đất thịt, đất phù sa, phân mùn và cần nhất là không gian thoáng đãng, nhiều ánh sáng. Cây đào rụng lá hàng năm vào mùa đông, đến mùa xuân lại nảy lộc, ra hoa. Vì vậy, người trồng phải có kinh nghiệm và hiểu biết kỹ thuật để làm cho cây đào nở hoa đúng vào dịp Tết. Giữa tháng Chạp (12 Âm lịch), nụ hoa hé là vừa. Nếu trời trở gió nồm, thời tiết ấm lên thì hoa có thể nở sớm. Muốn hãm thì phải ngưng tưới để đất hơi khô.

Cách Tết độ vài ngày, hoa đào bắt đầu nở lác đác. Những cánh hoa hồng thắm chi chít khắp cành. Từng chùm lá non xanh như ngọc bích rung rinh trước gió. Sáng mồng Một Tết, hoa đào nở rộ, hương thơm nhẹ nhàng, thoang thoảng. Một màu hồng rực bao phủ khắp cây đào, tạo ngôn vẻ đẹp có sức quyến rũ lạ lùng. Nhìn hoa đào nở, lòng người hân hoan xúc động trước linh hồn của mùa xuân.

Trong hàng trăm ngàn loài hoa, hoa nào cũng có vẻ đẹp riêng, nhưng đặc biệt hơn cả là hoa đào mang tới cho con người sức sống rạo rực của mùa xuân. Màu hồng của hoa đào như một lời chúc tốt lành, đem lại sự may mắn trong năm mới. Cùng với hoa mai miền Nam, hoa đào miền Bắc đã góp phần tô điểm cho sắc xuân tuyệt vời của đất nước Việt Nam yêu dấu.

Bài làm mẫu 4

Hàng năm mỗi độ tết đến xuân về, tiết trời ấm áp là lúc hoa đào bắt đầu nở rộ. Hoa đào sẽ tô thêm vẻ đẹp cho hương sắc của mùa xuân, khiến cho cái tết của mọi nhà thêm ấm áp. Hầu hết các tỉnh ở Bắc Bộ đều coi hoa đào là đặc trưng trong ngày tết của mình.

Người ta đã đặt cho đào với tên khoa học là Prunus Persica. Có nhiều giống đào nhưng đào bích được coi là giống đào đẹp nhất. Hoa đào bích có nhiều cánh xếp chồng lên nhau màu hồng thẫm, loại này được trồng để chỉ lấy hoa. Giống thứ hai là giống đào phai, hoa có năm cánh, cánh màu phớt hồng, được trồng để lấy quả. Giống đào bạch hiếm thấy, cây nhỏ ít hoa có màu trắng tinh khiết. Đào thất thốn có hoa màu đỏ thẫm, khó trồng, khó chăm sóc, nên ít được người ta trồng.

Mùa xuân đến hoa đào nở rộ, cánh đào mỏng mềm và mịn như nhung, có những năm khi tết đã đến, xuân về nhưng tiết trời lạnh, hoa đào không thể nở được. Đào mọc thành từng bông riêng lẻ chứ không mọc thành chùm. Hoa đào thường nở 4-5 ngày thì tàn. Để cho ra một cây hoa đào đẹp, người trồng đào phải mất rất nhiều thời gian và công sức để trồng đào.

Đào trồng để ăn quả thì không phải chăm sóc nhiều. Từ việc đốn cành tỉa lá uốn cây theo các thế khác nhau đều phải rất tỉ mỉ và khéo léo. Trước tết khoảng 15 ngày, người trồng đào phải tuốt lá để đào sai hoa vào đúng dịp Tết. Ngày tết mà có cảnh đào trong nhà, sẽ tạo nên sự ấm cúng, một năm mới đủ đầy của mỗi nhà.

Bên cạnh bánh chưng xanh, câu đối đỏ, mâm cỗ tất niên là cành đào nhỏ, góp phần tăng thêm hương vị cho ngày tết. Đào không chỉ góp phần tô đậm thêm cho hương sắc của mùa xuân mà còn là loại cây mang lại giá trị kinh tế cao. Tùy thuộc vào mức độ đẹp và to nhỏ khác nhau mà mỗi cây đào có giá khác nhau, chúng có giá từ vài chục nghìn đến vài triệu đồng.

Hoa đào cùng với bánh chưng xanh là thứ không thể thiếu trong dịp lễ tết cổ truyền của dân tộc. Khách du lịch đến Việt Nam coi cành đào là món quà mang giá trị tinh thần lớn, những người con xa xứ khi ngắm cành đào lại nhớ về quê hương, như được sống với không khí tết của quê hương mình.

Cây đào không chỉ để làm cảnh, lấy quả mà còn dùng để chế thuốc rất hiệu quả. Hoa đào được chế làm thuốc đắp mặt, đem lại là da mát, mịn màng, hồng hào cho người phụ nữ. Hoa đào còn được chế thành thuốc chữa bệnh bí đại tiện rất hiệu quả.

Xã hội phát triển, con người có nhiều thứ để bày trong ngày tết, nhưng hoa đào vẫn luôn được mọi người yêu thích. Dù có những lễ vật sang trọng đến đâu, người ta vẫn muốn có một cây đào đẹp trong ngôi nhà của mình vào dịp tết.

Thuyết minh về cây hoa đào đầy đủ Bài làm mẫu 1

Mùa xuân đến cùng với những đàn chim én bay lượn trên bầu trời, với cơn mưa xuân nhẹ nhàng và đặc biệt là có không khí tươi vui chào đón năm mới. Sự hân hoan náo nhiệt đón Tết ngập tràn cả đất nước ta. Miền Nam là những cành mai phơi phới vàng tươi đầy sức sống. Còn miền Bắc chúng ta nở rộ giữa sự se lạnh còn vương vấn của mùa đông ấy lại là những cây hoa đào đỏ thắm, đỏ tươi hay màu hồng nhạt. Hoa đào là một trong những cần thiết mỗi dịp tết đến ở miền Bắc. Thiếu đi cành đào năm mới như mất đi hương vị của ngày tết đối với người dân nơi đây.

Đào là cái tên rất quen thuộc với chúng ta. Đối với khoa học tên của nó là Prunus Persica. Đào có nguồn gốc từ Trung Quốc, là một cây ăn quả. Sau đó cây đào được trồng ở vùng Nghệ Tĩnh Việt Nam ta, ngày nay ở làng Nhật Tân – ngoại thành Hà Nội cũng trồng hoa đào, nơi đây còn gọi là xứ sở hoa đào. Ngoài ra ở Đà Lạt còn có thể trồng một loại hoa đào ghép khác tuy nhiên vẫn không thể sánh bằng đào Nhật Tân.

Chắc hẳn ai cũng biết được hình dáng cây đào thân quen này. Đào là cây thân gỗ, nhưng rất mềm, dễ uốn, cao từ 10-15cm. Thân đào gồm rất nhiều nhánh nhỏ, vở sần sùi, màu nâu, lá đào hình mũi mác dài 2-3cm. Hoa đào nở rộ vào cuối mùa đông, đầu mùa xuân. Cách phân chia cành và số hoa mỗi cành của mỗi loài mỗi khác, thông thường thì mỗi đốt sẽ có từ 1-2 bông hoa.

Mỗi loại đào thường có một sắc thái riêng của nó như màu đỏ son, đỏ tươi, hồng đậm, hồng nhạt, chủ yếu là gam màu nóng. Cánh đào xen kẽ lẫn nhau khum khum lại để lộ ra nhị hoa màu vàng với mùi thơm nhẹ, thoải mái. Dựa theo số cánh mỗi bông, đặc điểm bên ngoài mà người ta chia đào thành nhiều loại nổi bật là đào bích, đào phai.

Ngoài ra người ta trồng đào còn dựa vào cách trồng mà phân chia đào thành hai loại chính là đào thế và đào cành. Đào thế có tuổi ít nhất là từ hai năm trở lên,thân càng xù xì càng tốt. Người ta uốn các tay đào thành các thế khác nhau. Khi bán đào thế thì phải bán cả cây nên loại đào này thường rất đắt. Ngược lại, đào cành chỉ bán cành giữ lại gốc để tiếp tục trồng nên giá rẻ hơn rất nhiều.

Trồng đào gồm rất nhiều giai đoạn khác nhau. Đầu tiên, phải trồng ở những nơi có đất cao, trồng thành luống xung quanh là rãnh sâu. Người ta sẽ lấy gốc cây đào hạt ươm thành cây sau đó ghép với đào bích, đào phai. Người trồng sẽ phải chăm sóc cây đào đến tận tháng Tám âm lịch rồi mới bắt đầu tuốt lá. Việc này đòi hỏi rất nhiều công sức của người trồng.

Bởi lẽ tuốt lá phải tuốt nhẹ nhàng dần dần cho đến hết. Đặc biệt giai đoạn này còn cần người trồng phải biết trước thời tiết. Nếu Tết nóng thì sẽ tuốt lá muộn hơn. Còn nếu Tết lạnh thì phải tuốt lá sớm. Đồng thời, khi chăm sóc đào cần phải chú ý các loại sâu đục thân… Cây đào bị ứa nhựa hay nổi mụn gỗ thì phải bắt sâu ngay.

Việc mua đào sắm tết dường như đã trở thành thói quen hay một truyền thống của người dân miền bắc trong những ngày tết đến. Và đương nhiên ai cũng có một cách thưởng thức của riêng mình. Đối với đào thế thì thường được trồng trong chậu hoắc trông xuống đất trong vườn. Đào cành thì cắm vào lọ, trang trí ở trong phòng khách hoặc trên bàn thờ. Khi mua về thì nên cắm cành đào vào trong lọ 3-4 tiếng, nước ngập đến cổ. Để giữ đào lâu tàn hơn thì người ta thường dùng vôi bôi ở mặt cắt cuống hoặc dùng lửa đốt cho héo mặt đốt rồi cắm vào lọ. Đặc biệt nước trong lọ phải đầy.

Theo tương truyền, cành đào có khả năng đuổi tà ma đem lại sự ấm áp cho những ngày tết ở miền bắc. Với màu sắc tươi vui, đào đem đến xuân đầy sức sống với những niềm vui, những hứa hẹn năm mới Ngoài ra đào cũng được coi là một đề tài quen thuộc của thơ ca. Bóng cây đào thấp thoáng trong những bài thơ, câu văn của các tác giả Việt Nam như bài thơ “Ông Đồ” của Vũ Đình Liên:

Không chỉ thế đào được sử dụng như một vị thuốc hiệu quả. Đào có thể làm thuốc đắp mặt khiến cho làn da mịn màng. Danh y Tuệ Tĩnh cũng nhắc nhiều đến đào trong cuốn sách y học của mình.

Cứ mỗi năm, mùa xuân nối tiếp mùa xuân, hoa đào rồi lại tàn. Thời gian cứ trôi mãi trôi mãi chẳng dừng lại. Cuộc sống rồi sẽ thay đổi, con người thay đổi nhưng hoa đào vẫn thế, vẫn là một thứ không thể thiếu trong dịp tết cổ truyền. Đồng thời, hoa đào cũng đã vượt qua nghìn cây số đến với miền Nam. Và mai cũng đã đến với miền bắc chúng ta tạo ra sự giao lưu văn hóa giữa hai miền Nam-Bắc. Hoa đào quả là một loài hoa đẹp, ý nghĩa với tất cả chúng ta.

Bài làm mẫu 2

Nói về ngày lễ ở Việt Nam, không thể quên nhắc đến Tết. Nhắc đến Tết không thể quên nồi bánh chưng và cành mai, cành đào. Hình ảnh hoa đào, hoa mai đã trở thành linh hồn của ngày Tết. Nói đến mai là miền Nam rực rỡ sắc vàng, còn đào lại là sắc hồng thắm của miền Bắc. Hoa đào đã trở thành nét riêng của miền Bắc Việt Nam.

Trước hết, có thể lí giải vì sao hoa đào là nét riêng của miền Bắc. Miền Bắc có khí hậu khá khác so với miền Nam. Miền Bắc vào mùa đông chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc tràn về nên có nền nhiệt thấp, lạnh. Khi sang xuân, thời tiết ấm áp dễ chịu. Xuân sang cũng là lúc đào nở rộ. Cây đào rất kén nhiệt và nơi sinh sống.

Đào không chịu được nhiệt độ quá lạnh, cũng không chịu được quá nóng. Đào cần được trồng ở những nơi nhiều ánh nắng và thông thoáng gió. Ở nhiệt độ quá lạnh, đào sẽ không thể nở hoa và phát triển. Chồi hoa bị chết ở nhiệt độ -15 đến -25 độ C. Sau khi hoa tàn, quả đào sẽ phát triển và chỉ chín được vào mùa hè với nhiệt độ lý tưởng là 20 đến 30 độ C.

Quả đào là một loại trái cây được yêu thích. Đào có rất nhiều loại: đào bích, đào phai, đào bạch… Nhưng phổ biến nhất vẫn là đào bích. Đào bích có nhiều cánh, cánh hoa màu đỏ thắm. Đào phai có màu sắc nhạt hơn, cánh hoa đã chuyển sang màu hồng. Đúng như tên gọi, đào bạch màu trắng, là loài hoa hiếm và khó trồng nhất.

Hoa đào được trồng ở hầu hết các tỉnh miền Bắc như Lạng Sơn, Lào Cai, Hà Nội.. Được ưa chuộng nhất vẫn là đào Nhật Tân. Nhật Tân là vườn đào nổi tiếng ở Việt Nam. Nơi đây nằm ở vùng đất ven sông Hồng ở Hà Nội. Vườn đào này nổi tiếng không chỉ bởi quy mô mà còn cả chủng loại và chất lượng đào. Hoa đào rất thích hợp với loại đất ven sông nhiều phù sa nên chất lượng đào ở Nhật Tân được đánh giá cao là vì thế. Cây đào có nguồn gốc từ Trung Quốc, được lựa chọn và lai giống để có màu sắc tươi và rực rỡ hơn.

Cây đào khá kén chăm sóc và tưới bón. Nếu không chăm sóc tốt, tưới tiêu phù hợp, đào sẽ không thể nở hoa đẹp hoặc nở đúng thời kỳ. Ngoài ra cũng còn dựa vào khí hậu thời tiết, đào sẽ ra hoa vào lúc nào. Cũng như mai, đào muốn nở hoa, người trồng đào phải tuốt lá trước khoảng hai tuần để nụ hoa đơm ra, hoa nở đúng mùa vụ. Mỗi năm, hoa đào chỉ nở một lần vào mỗi độ sang xuân.

Vào hè quả đào sẽ chín. Quả đào thường có vị chua, là loại trái cây yêu thích của nhiều người. Lá đào không giống lá mai. Lá đào dài hơn, có vân là răng cưa, màu xanh lá nhạt không đậm, rì như lá cây mai. Cành đào cũng mảnh và mỏng hơn so với cây mai. Cánh đào tương tự cánh mai, mỏng, nhẹ.

Hoa đào có nhiều cánh cứ đan xen vào nhau mang màu hồng thắm hoặc nhạt theo từng giống đào. Hoa đào nở rất nhanh, tàn cũng rất nhanh. Trung bình một bông hoa từ lúc thành nụ đến khi tàn là khoảng 2 đến 3 tuần. Khi đào nở bung chuẩn bị tàn, chỉ cần một làn gió nhẹ thổi qua, cánh hoa đào cũng sẽ rơi xuống hệt như hoa anh đào của Nhật Bản.

Tùy theo chủng loại, tuổi đời và cách chăm bón, cây đào có nhiều kích thước khác nhau. Có thể rất nhỏ hoặc rất lớn. Rễ cây đào là rễ cọc, luôn có thân giữa cứng cáp to lớn làm trụ. Trung bình một cây đào cao khoảng 1 mét trở lên. Cây đào có nhiều cành, cành mềm dẻo dễ uốn nắn. Vì thế mà người trồng đào có thể uốn nắn theo từng hình dáng, tướng tá khác nhau. phù hợp với thị yếu của người mua.

Hoa đào mang rất nhiều ý nghĩa. Trước đây, hoa đào mang tinh thần đuổi ma quỷ trong nhà. Ngày nay, hoa đào mang lại sự ấm cúng cho gia đình, mang lại sự an khang thịnh vượng. Vẻ đẹp đằm thắm, hài hòa và kín đáo của hoa đào mang lại niềm vui, niềm hi vọng mới. Không chỉ thế, hoa đào còn đại diện cho tình bạn thân thiết, của lòng hướng về gia đình. Bởi vậy mà những người con miền Bắc xa quê, những người bạn thân đến thăm nhau vào dịp tết thường chọn cành đào làm quà.

Hoa đào ngày nay đã trở thành tinh thần ngày tết, hồn dân tộc Việt. Vì thế, nên những người Việt xa quê, đón Tết tại nơi xứ người, luôn muốn tìm một cành đào để trang trí trong nhà, để họ cảm thấy một cái tết Việt Nam. Sắc hồng thắm nhẹ nhàng của đào là hương vị không thể thiếu của người Việt Nam. Thiếu đào, cái hơi thở của Tết chưa thật sự đúng nghĩa. Hoa đào, hoa mai là hình ảnh của Tết, là linh hồn của ngày Tết quê hương.

Đào khoe sắc thắm báo hiệu một năm đã qua, năm mới lại về. Năm mới với những thử thách mới, hi vọng mới, niềm tin mới. Sắc đào rộ lên là lúc báo hiệu thời khắc thiêng liêng của một năm lại tới. Người người ai ai cũng quây quần đoàn tụ với gia đình. Dù ai đi ngược về xuôi vẫn nhớ đến gia đình quê hương mà tìm về vào dịp Tết không quên mang theo cành đào, cành mai về làm quà.

Bài làm mẫu 3

Nói đến mùa xuân đất Bắc ta nghĩ ngay đến hoa đào – loại hoa đặc biệt mỗi dịp xuân về. Mùa xuân về trên những cành hoa ửng hồng duyên dáng và đất trời bồi hồi thổn thức, ấy là xuân, ấy là sắc hoa, Cây đào là loại hoa đặc biệt của Tết Nguyên Đán. Nhiều người chuộng chơi hoa đào tết vì hoa đào có màu đỏ sẽ mang lại sự may mắn trong năm.

Mặc dù nguồn gốc được cho ở xứ Ba Tư xa xôi nhưng ngày nay hoa đào có mặt khắp nơi trên đất nước ta, đặc biệt là ở miền Bắc mỗi khi Tết đến Xuân về. Người ta yêu loài hoa này vì những giá trị thẩm mỹ và văn hóa của nó. Nó là một loài cây sớm rụng lá, thân gỗ nhỏ, có thể cao tới 5-10m. Lá của nó có hình mũi mác, dài 7-15cm và rộng 2-3cm.

Hoa nở vào đầu mùa xuân, trước khi ra lá, hoa đơn hay có đôi, đường kính 2,5-3cm, màu hồng, ở nước ta đào được quan tâm nhiều đến hoa mỗi độ xuân về. Hoa đào ở Việt Nam có bốn giống thường thấy là: Đào bích có màu hồng thẫm, đào phai hoa màu hồng nhạt, đào phai hoa kép, sắc hồng phảng phất kiêu kì, đào bạch màu trắng ít hoa hơn, tương đối khó trồng; đào thất thốn cây thấp nhỏ, hoa nhỏ và nhiều màu, thường được trồng vào chậu uốn thành các dạng thế.

Đào bích là loài hoa đào phổ biến, cành hoa thắm sắc, hoa rải đều khắp các cành, các tán, xen lẫn nụ hoa xinh với những lộc xanh, chen lẫn những cánh hoa xòe tán với những nụ vừa nhú. Bích đào dù được cắm trong lọ để phòng khách, trên bàn tiếp khách hay vài cành nhỏ cắm trên bàn thờ gia tiên cũng đều đẹp.

Người chơi công phu thì chọn đào tết từ trước đó cả tháng. Nào thì thế phương, thế rồng, nào thì đủ lộc đủ tán…còn kẻ mua hoa về cắm Tết cho đúng với khí xuân thì chỉ chăm chăm nhiều nụ nhiều lộc là được. Chọn được cành đào ưng ý mang về, phải có cái bình đẹp, đốt phần cắt cành để giữ lại nhựa mà nuôi sống thân cành, mà đơm cho hết những nụ hoa trên cành. Có nhà cầu kì chơi hoa đào từ sớm, qua Tết hết hoa, lại kiếm cành đào mới mà chơi cho đến tận rằm tháng Giêng. Ấy thế là mùa xuân cứ tưng bừng gần cả tháng trời.

Với văn hóa Việt Nam, hình ảnh hoa đào được gắn với hai vị thần Trà và Uất Lũy trú ngụ ở trên cây hoa đào khổng lồ che chở cho dân chúng. Hoa đào còn là hình ảnh những cô gái trẻ, mảnh mai, và yếu đuối, thể hiện qua thành ngữ “liễu yếu đào tơ”. Hoa đào còn có mặt trong văn học dân gian gắn bó với tình yêu và duyên nợ của trai gái:

Hay:

Ta còn bắt gặp hình ảnh hoa đào trong thơ Nguyễn Du, trong thơ Nguyễn Bính, thơ Vũ Đình Liên… và nhiều bài thơ hiện đại, tất cả đều tượng trưng cho mùa xuân, tuổi trẻ và sắc đẹp.

Hoa đào còn là một dược phẩm và mỹ phẩm độc đáo của nền y học cổ truyền. Từ xa xưa, sau dịp Tết Nguyên Đán, người ta thường thu hái hoa đào đem phơi khô trong bóng râm (phơi âm can) và bảo quản nơi cao ráo để làm thuốc dùng dần chữa nhiều chứng bệnh nhưng đặc biệt tốt với việc làm đẹp cho phụ nữ.

Hoa đào đã trở thành một loài hoa mang theo biểu tượng của mùa xuân. Và mãi mãi hoa đào mang xuân đến, mang niềm vui và may mắn, đồng hành cùng con người Việt Nam, bất chấp sự vô hạn của thời gian và sự hữu hạn của đời người.

Bài làm mẫu 4

Hoa đào tự bao giờ đã đi vào thơ ca một cách rất tự nhiên. Cứ mỗi dịp Tết đến xuân về có muôn trăm khoe sắc tỏa hương, đem đến bao sức sống mới về sự hồi sinh cho con người. Trong làn sương mỏng giăng mắc trên phố phường, làng xóm của phương Bắc có hình những bông hoa đào nở rộ đẹp đẽ và nổi bật.

Cây hoa đào thuộc họ hoa hồng xuất hiện ở nhiều nước Châu Á như Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam…Riêng ở Việt Nam trước kia hoa đào chỉ được trồng ở miền Bắc, ngày nay hoa đào được trồng rộng rãi ở nhiều nơi nhưng không đâu có hoa đào đẹp ở miền Bắc đặc biệt là làng đào Nhật Tân ở Hà Nội.

Advertisement

Cây hoa đào có nhiều giống, nhiều loại với nhiều màu sắc khác nhau thường nở vào mùa xuân. Đẹp nhất là loại đào bích, loại đào này có nhiều cánh màu hồng thẫm, nằm dọc theo cành, là giống đào được dùng chơi trong ngày Tết cổ truyền ở Việt Nam. Ngoài ra còn có giống đào phai, cánh hoa màu hồng nhạt, sai hoa, sai quả nhưng thường được trồng để lấy quả. Còn một số loại đào khác như đào bạch, hoa màu trắng, ít cánh, thưa hoa, loại này tương đối khó trồng.

Đào thất thốn, cây thấp nhỏ, hoa màu đỏ thắm thường trồng trong các chậu, tạo thế, dáng theo ý muốn của con người. Ở miền núi phía Bắc có một loại đào rừng còn gọi là đào mốc, sở dĩ có tên gọi như vậy vì loại đào này thân xù xì, rêu mốc, nụ và hoa ẩn hiện trong lá non. Đào mốc có nhiều ở Sơn La, Lai Châu.

Những năm gần đây đào mốc đã rời bản về xuôi ăn Tết với đồng bằng. Cây hoa đào ưa trồng đất thịt, đất phù sa và phân mùn. Cây rụng lá về mùa đông, đến mùa xuân nảy lộc ra hoa. Thân cây xù xì, nhiều màu, màu nâu, lá đào nhọn, rìa á hình răng cưa. Hoa đào có năm cánh khi nở để lộ ra phần nhụy có màu vàng. Hương hoa đào man mác thoang thoảng.

Hoa đào mang theo vẻ đẹp của mùa xuân , người ta chuộng chơi hoa đào ngày Tết vì hoa đào có màu hồng đỏ đem lại sự may mắn, sinh lộc cho gia đình. Không những thế người Việt Nam ta còn có quan niệm ngày Tết có một cành đào nở rực trong nhà sẽ đuổi được tà ma, khí độc, vì thế mỗi dịp Tết đến xuân về cành đào lại xuất hiện trên bàn thờ hoặc ở một vị trí đẹp, thuận lợi trong nhà. Có lẽ Tết sẽ chưa trọn vẹn nếu thiếu một cành đào.

Trong lịch sử dược học Á Đông hoa đào còn được dùng để làm thuốc uống, chữa bệnh. Danh y Tuệ Tĩnh đã có lần nhắc tới tên các vị thuốc có hoa đào trong cuốn sách “Tâm dược thần hiệu”. Với phụ nữ Á Đông hoa đào còn có tác dụng giúp có một làn da trắng đẹp, mịn màng.

Để có một cây hoa đào nở đúng vào dịp Tết cổ truyền đòi hỏi người trồng hoa có một quá trình chăm sóc cẩn thận, tỉ mỉ. Thường thì sau khi chơi Tết xong người ta đem hoa đào ra vườn để trồng, đốn toàn bộ cành lá, sau đó chăm sóc, tưới, giữ ẩm để đào nảy lộc tốt. Trồng đào khoảng 6- 7 tháng người ta vặt toàn bộ lá của cây để đào phát triển nụ, tùy thuộc vào thời tiết mà người ta có cách chăm sóc cây để cho hoa nở đúng dịp chơi Tết.

Nếu thời tiết nắng ấm nhiều, trời nồm, hoa có thể nở sớm, muốn hãm độ nở của hoa thì phải ngưng tưới nước để đất hơi khô hoặc tưới ít nước mát để cây phát triển chậm lại. Ngược lại nếu trời lạnh thì hoa nở muộn, người trồng phải dùng nước ấm để tưới, dùng ni lông chăng kín vườn trồng đào, thắp bóng điện để sưởi ấm. Ngoài trồng bằng gốc có thể chiết cành để trồng hoặc trồng bằng hạt.

Bên cạnh thịt mỡ, dưa hành, bánh chưng xanh… thì cây hoa đào vẫn mãi không thể thiếu trong ngày Tết. Hoa đào mãi đem lại cho con người những giá trị tinh thần to lớn để rồi chúng ta phải lưu giữ những nét đẹp cổ truyền dân tộc Việt.

Bài làm mẫu 5

Cứ mỗi độ tết đến xuân về, nhà nhà lại sắm sửa đồ dùng để đón tết. Nào là bánh chưng, bánh tét, nào kẹo, mứt, hạt dưa, … để đón năm mới về. Và không thể thiếu ở trong mỗi gia đình là những bông hoa tươi, những cành đào thắm, những đóa mai vàng để không khí xuân sang thêm rực rỡ. Trong đó, ở miền Bắc, những cây hoa đào là loài cây được ưa chuộng nhất mỗi độ xuân về.

Nếu như người Nam Bộ ưa dùng nhành mai vàng thì ở miền Bắc, người ta lại ưa dùng những cành đào hồng. Cùng với quất và mai, cây hoa đào là một trong những loài hoa được sử dụng nhiều nhất mỗi dịp tết. Đào được cho rằng có nguồn gốc từ Ba Tư hoặc Trung Quốc. Nhưng điều này khó ai có thể biết rõ được bởi cây đào đã được người dân Việt truyền tay nhau trồng nên từ biết bao đời nay.

Vậy tại sao cây hoa đào lại là loài cây được người dân ưu ái, ưa dùng nhất mỗi khi dịp tết? Bởi vì hoa đào thường nở đúng dịp tết. Tuy thời gian nở hoa ngắn, nhưng lại mang một vẻ đẹp mà các loài hoa khác không thể có được. Còn theo truyền thuyết trong dân gian kể lại rằng, khi xưa, trên núi Sóc Sơn, có một vị thần cai quản nhân gian, giúp dân trồng trọt, trừ yêu. Nhưng ngày tết, vị thần này phải lên trời để dự tiệc bàn đào.

Điều này khiến cho dân chúng cảm thấy lo sợ. Vậy nên, thần đã bẻ một nhành cây mọc trên núi, rồi đưa cho người dân để trong nhà để xua đuổi tà ma. Sau đó, nhành cây này được mọi người chia nhau nhân giống rộng khắp nơi. Từ đó mà hình thành nên cây hoa đào cũng như truyền thống chơi đào của người dân khi tết về.

Cây hoa đào là một loài cây thân gỗ, thẳng đứng, sống lâu năm, thuộc họ hoa hồng. Thân cây cao khoảng từ một tới ba mét tùy thuộc vào môi trường sống cũng như quá trình chăm sóc mà cây có thể cao thấp tùy theo yêu cầu của người trồng cây. Thân đào có màu nâu, trơn bóng. Các cành cây thì mảnh dẻ tỏa ra bốn hướng.

Trên mỗi cành cây là lá đào mọc thành chùm, tầm ba đến bốn lá. Lá đào thon dài, độ khoảng mười lăm centimet. Không như hoa mai miền Nam ưa cái nắng nóng, hoa đào lại ưa cái thời tiết se se lạnh bốn mùa của miền Bắc. Chính vì vậy, đào thường trổ hoa vào những ngày giáp tết, khi cái lạnh còn chưa qua hết và cái ấm vừa mới sang .

Hoa đào màu hồng nhưng cũng có giống đào màu trắng. Hoa có năm cánh, hình tròn, xếp khít thành một vòng. Nhụy hoa màu vàng và có cuống hình ống. Hoa đào thành nụ trong cái rét nên chỉ chờ khi tiết trời ấm áp để bung nở, vừa đúng dịp xuân về. Khi đào kết quả thì có dạng tròn, thường được bao phủ một lớp lông tơ mịn bên ngoài, vị ngọt và khá giòn.

Cây hoa đào trông vậy nhưng nếu thật tinh mắt thì mới thấy, đào được phân ra thành nhiều loại khác nhau. Nếu dựa theo màu sắc của cánh hoa, ta có đào bích và đào phai. Đào bích là loại đào có hoa màu hồng đậm, thường được trồng ở các vùng giáp với Hà Nội, còn đào phai là loại đào có cánh màu hồng nhạt.

Đào phai chính là loại đào được người ta ưa chuộng nhất, cũng là loại đào được trồng trong cung vua ngày xưa. Người ta biết đến những vườn đào Nhật Tân nổi tiếng, những vườn đào rộng bát ngát bãi bồi sông Hồng chính là nơi trồng loại đào phai này bởi đào phai chỉ có thể trồng ở đất kinh kì Hà Nội.

Ngoài ra, người ta còn phân loại đào theo số lượng cánh hoa thành đào đơn và đào kép. Nhưng giống đào đặc biệt nhất phải kể ra là loại đào trắng chỉ có ở Sapa. Đào trắng thân thấp, hoa trắng có năm cánh, ưa cái lạnh giá buốt của Sapa. Người sành chơi đào nếu muốn có phải lặn lội săn tìm loài đào tận những khu rừng ở Sapa để mang về chơi dịp tết.

Bởi vì hoa đào thường được bày trong ngày tết nhưng vào độ một tháng trước tết, chúng ta có thể thấy đào được bày bán khắp mọi nơi. Dăm bảy loại đào với dăm ba kiểu dáng khác nhau cứ chen nhau tỏa hương sắc rực rỡ. Người chơi đào có khi chơi cả chậu, có khi lại chỉ chơi một cành đào phải nhỏ. Nhưng thấy đào, người ta dường như thấy cả tết, thấy cả một mùa xuân đầy may mắn về.

Vậy nên, ai đi xa mà trở về quê hương, người ta thường chọn một cành đào để mang về. Đó là món quà xa quê, món quà của lòng mong mỏi được trở về sum họp với gia đình. Vậy nên cây hoa đào không chỉ để trưng bày dịp tết, có giá trị về mặt thẩm mĩ, mà nó còn có tác dụng làm đẹp cho con người. Từ xưa, những người phụ nữ đã truyền nhau cách làm đẹp từ những cánh hoa đào này, đặc biệt là dùng để chăm sóc da.

Để có một cành đào đẹp trưng trong ngày tết thì trước đó cả tháng, người trồng đào đã bắt đầu ươm mầm, chăm bẵm cho cây. Những cây đào được ươm sẵn thành những cây cao khoảng một mét. Cách khoảng một tháng trước tết, đào được người trồng chăm sóc kĩ cho ra nụ hoa và uốn theo thế có sẵn, mà thường là thế rồng phượng uốn lượn, …

Vì cây đào ưa đất thịt, đất bùn, ưa không gian thoáng rộng và thường ra nụ trong dịp gió lạnh nên người trồng đào phải canh gió, canh lạnh cho cây. Đến khi nụ đào nở he hé, người trồng đào phải giữ nụ bằng kinh nghiệm và kĩ thuật của mình để cành cho đào nở đúng dịp tết. Đào ta ưa cái lạnh âm ẩm chứ không phải là rét buốt như đào của đất Sapa. Chờ tới khi gió xuân ấm về, cả vườn đào chợt bung tỏa hồng rực thì đó cũng là lúc tết đã về.

Cũng như bánh chưng, hoa đào đã trở thành nét đặc trưng không thể thiếu của không khí tết miền Bắc. Đó là loài cây báo hiệu mùa xuân về. Người ta quan niệm rằng nếu có một cành đào trong nhà ngày đầu năm thì năm đó, gia chủ sẽ đón tài lộc và may mắn cả năm. Bởi vậy, đào còn là sự may mắn, sự phúc lộc.

Dịp tết là lúc những người con trở về nhà cũng là lúc để những người xa quê hương tưởng nhớ lại quê hương. Trở về nhà với cành đào trên tay, tức là đã mang tết về nhà, mang tình thân về sum họp. Hoa đào muôn đời nay vẫn là biểu tượng của mùa xuân, của may mắn và hạnh phúc. Và nó sẽ luôn luôn là như vậy.

….

Văn Mẫu Lớp 9: Thuyết Minh Về Bài Thơ Đồng Chí 2 Dàn Ý &Amp; 6 Bài Văn Mẫu Lớp 9 Hay Nhất

1. Mở bài

Từ hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Pháp giới thiệu về tác giả và tác phẩm

Nêu nhận định đánh giá chung

2. Thân bài

* Tác giả Chính Hữu

Sinh năm 1926 mất năm 2007

Tên thật là Trần Đình Đắc

Quê ở huyện Cam Lộc tỉnh Hà Tĩnh

Vừa là một nhà thơ vừa là một người chiến sĩ trực tiếp tham gia kháng chiến

Hồn thơ mộc mạc giản dị giàu chất hiện thực

Được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật

* Bài thơ Đồng Chí

Được sáng tác đầu năm 1948 khi tác giả cùng đồng đội tham gia vào Chiến dịch Việt Bắc Thu Đông

Bài thơ có bố cục làm hai phần

Bài thơ thể hiện tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn trong cuộc kháng chiến chống Pháp

Vượt lên trên những gian khổ khó khăn thiếu thốn là tình đồng chí đã vươn lên chiến thắng kẻ thù

Vận dụng thành công các thành ngữ câu thơ sóng đôi đối xứng

Thể thơ tự do hình ảnh thơ mộc mạc chân thật

3. Kết bài

Khái quát lại giá trị của tác phẩm

Nêu cảm nhận cá nhân

Đánh giá chung

I. Mở bài:

Giới thiệu tác phẩm Đồng chí.

II. Thân bài:

a. Tác giả:

Chính Hữu (1926-2007), tên thật là Trần Đình Đắc, quê gốc ở huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô.

Từng được giữ nhiều chức vụ quan trọng trong nhà nước, vinh dự nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật lần hai được trao tặng năm 2000.

Bắt đầu sáng tác vào năm 1947, với đề tài chính là người lính và chiến tranh. Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính của ông, trong đó có bài thơ Đồng chí (2/1948) là đặc biệt nổi tiếng.

Phong cách sáng tác hàm súc, ngôn từ giản dị, linh hoạt, và hình ảnh được chọn lọc.

b. Tác phẩm:

Giới thiệu:

Đồng chí được Chính Hữu sáng tác vào đầu năm 1948, in trong tập Đầu súng trăng treo (1966).

Ra đời nhân dịp tác giả cùng đồng đội tham gia vào chiến dịch Việt Bắc Thu đông năm 1947.

Đồng chí có thể xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu và xuất sắc nhất khi viết về đề tài người lính cách mạng giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-1954).

Nội dung thể hiện hình tượng người chiến sĩ cách mạng những năm đầu kháng chiến chống Pháp, đồng thời bộc lộ và làm sáng rõ tình cảm gắn bó keo sơn giữa những người lính cùng chiến tuyến, điều kiện tiên quyết làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc.

* Bố cục:

Phần một (7 câu thơ đầu), nêu ra cơ sở chính để hình thành tình đồng chí.

Phần hai (11 câu thơ tiếp theo) thể hiện tình cảm gắn bó giữa những người lính và vẻ đẹp của hình tượng người lính.

Phần cuối (3 câu thơ còn lại) cảm hứng lãng mạn cách mạng, những hình tượng có ý nghĩa biểu trưng cho người lính chiến.

* Nhan đề “Đồng chí”: Là cách gọi hàm súc thể hiện những tình cảm gắn bó keo sơn, thắm thiết nghĩa tình của những người cùng chung một chiến tuyến, có cùng lý tưởng.

* Những nét chính về nội dung: “Quê hương anh nước mặn đồng chua…Đồng chí !”:

Xuất thân người lính: Nghèo khó, đứng lên từ những vùng đất sỏi đá, khô cằn nơi miền trung nắng gió khắc nghiệt.

Họ đến từ những vùng quê khác nhau, chưa từng quen biết, thế nhưng trên cơ sở cùng chung một lý tưởng chiến đấu, cùng một niềm tin về đất nước ngày mai được tự do, độc lập.

Trong viễn cảnh chiến đấu khắc nghiệt, gian khổ, việc cùng sát cánh bên nhau chiến đấu, cùng ăn, cùng ngủ, đưa họ thành những người tri kỷ, thân thiết như anh em ruột thịt một nhà.

– “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày…Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”

Chấp nhận rời bỏ quê hương, rời bỏ cuộc sống yên ấm, rời bỏ nhà cửa, người thân để bước ra chiến tuyến, đi theo tiếng gọi của Tổ quốc.

Phải chịu nhiều khó khăn vất vả, đó không chỉ là những hiểm nguy bom đạn, mà còn là sự thiếu thốn vật chất, tinh thần, quân nhu yếu phẩm.

Áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày, chịu đựng cái hoang lạnh khắc nghiệt của vùng núi rừng Việt Bắc để tiếp tục chiến đấu.

– “Đêm nay rừng hoang sương muối… Đầu súng trăng treo”

Hiện thực khắc nghiệt “rừng hoang sương muối”, sự mạnh mẽ, chủ động hơn trong hình ảnh “chờ giặc tới”.

Hình ảnh “đầu súng trăng treo”: Có ý nghĩa hình tượng sâu sắc.

Trăng gắn liền với sự hòa bình, dịu êm, niềm vui sum họp đoàn tụ.

Súng chính là biểu tượng của tinh thần chiến đấu bất diệt vì độc lập tự do.

III. Kết bài:

Nêu cảm nhận chung.

Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, sinh ngày 15/12/1926, tại thành phố Vinh, Nghệ An, quê ở Can Lộc, Hà Tĩnh. Trước Cách mạng tháng Tám, ông học trung học ở Hà Nội; năm 1946 gia nhập Trung đoàn Thủ đô; 1950 phụ trách Đoàn văn công quân đội; 1953 – 1954 tham gia các chiến dịch Thượng Lào và Điện Biên Phủ; từ 1954 tiếp tục công tác văn nghệ trong quân đội.

Bài thơ đầu tiên được biết đến của ông là bài Ngày về (1947). Đó là bài thơ thể hiện ý chí của người chiến sĩ Hà Nội quyết trở về giành lại quê hương bị rơi vào tay giặc Pháp. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Chính Hữu hầu như chỉ viết về người chiến sĩ và cuộc chiến đấu chống ngoại xâm.ông sáng tác ít, nhưng để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Tác phẩm chính là tập thơ Đầu súng trăng treo (1966).

Bài thơ Đồng chí, sáng tác vào đầu năm 1948, sau khi Chính Hữu đã cùng đồng đội tham gia chiến dịch Thu đông 1947, đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Nhà thơ kể: “Tôi bị ốm, sốt rét ác tính, nhưng không có thuốc men gì cả. Đơn vị vẫn hành quân và để lại một đồng chí chăm sóc tôi. Không có đồng chí đó có lẽ tôi đã bỏ mạng. Sự ân cần của đồng chí đó khiến tôi nhớ đến những lần đau ốm được mẹ, được chị chăm sóc. Đó là những gợi ý đầu tiên cho bài thơ Đồng chí(Tác giả nói về tác phẩm, NXB Trẻ, 2000). Bài thơ nói về tình đồng chí, đồng đội thắm thiết sâu nặng của những người lính cách mạng, phần lớn xuất thân từ nông dân. Bài thơ cũng làm hiện lên hình ảnh chân thực, giản dị mà cao đẹp của anh bộ đội trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn rất khó khăn thiếu thốn.

Ra đời trong bối cảnh nền văn học mới hình thành được vài năm, Đồng chí là một trong những thành công sớm nhất của thơ ca kháng chiến. Đặc biệt thi phẩm đã góp phần mở ra phương thức khai thác chất thơ, vẻ đẹp của người lính trong cái bình dị, đời thường, chân thật.

Lịch sử anh hùng một thời máu lửa của đất nước đã trở thành một trong những đề tài hay và nhiều xúc cảm đối với các tác giả, đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, khi cách mạng vẫn còn non trẻ, sự thiếu thốn cả về cơ sở vật chất lẫn quân nhu yếu phẩm khiến cuộc kháng chiến của chúng ta càng gặp nhiều khó khăn. Thế nhưng đứng trước những thách thức ấy người lính cộng sản vẫn hiên ngang đứng vững, ôm súng bảo vệ Tổ quốc bằng mọi giá. Đặc biệt giữa những người chiến sĩ lại hình thành một thứ tình cảm rất đỗi thiêng liêng và cao đẹp ấy là tình đồng chí, điều đó được bộc lộ một cách rõ nét trong tác phẩm nổi tiếng, tiêu biểu nhất cho văn học cách mạng thời kháng Pháp ấy là Đồng chí của tác giả Chính Hữu.

Chính Hữu (1926-2007), tên thật là Trần Đình Đắc, quê gốc ở huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1946, ông gia nhập Trung đoàn Thủ đô, chiến đấu chống lại Pháp tại Hà Nội và đưa cơ quan đầu não của Việt Minh an toàn rút ra khỏi Hà Nội. Sống sót sau cuộc chiến ác liệt, Chính Hữu được điều đi bồi dưỡng chính trị và tiếp tục tham gia chiến đấu trong cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ở những giai đoạn tiếp theo. Ông đã từng được giữ nhiều chức vụ quan trọng trong nhà nước ta như nguyên Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị, Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Đồng thời vinh dự nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật lần hai được trao tặng năm 2000. Chính Hữu bắt đầu đời làm thơ của mình gần như cùng lúc với đời cách mạng, khi bắt đầu sáng tác vào năm 1947, với đề tài chính là người lính và chiến tranh, đó là những trang thơ viết về những gì mà ông cảm nhận được một cách chân thực và sâu sắc nhất trong suốt những năm ở tại các chiến trường. Đầu súng trăng treo (1966) là tác phẩm chính của ông, trong đó có bài thơ Đồng chí (2/1948) là đặc biệt nổi tiếng, có thể xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất không chỉ của đời thơ Chính Hữu mà còn là nền văn học cách mạng thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thơ của Chính Hữu tính ra không có nhiều tác phẩm, thế nhưng cũng đủ ghi dấu ấn trong nền văn học Việt Nam hiện đại bởi một phong cách sáng tác hàm súc, ngôn từ giản dị, linh hoạt, và hình ảnh được chọn lọc.

Đồng chí được Chính Hữu sáng tác vào đầu năm 1948, in trong tập Đầu súng trăng treo (1966). Tác phẩm ra đời nhân dịp tác giả cùng đồng đội tham gia vào chiến dịch Việt Bắc Thu đông năm 1947, phá vỡ cuộc tấn công quy mô lớn của thực dân Pháp lên chiến khu Việt Bắc, bảo vệ an toàn cho cơ quan đầu não của Đảng. Đồng chí có thể xem là một trong những tác phẩm tiêu biểu và xuất sắc nhất khi viết về đề tài người lính cách mạng giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-1954), và cả trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Nội dung chính của tác phẩm tập trung thể hiện hình tượng người chiến sĩ cách mạng những năm đầu kháng chiến chống Pháp, trong những hoàn cảnh gian khổ ác liệt, đồng thời bộc lộ và làm sáng rõ tình cảm gắn bó keo sơn giữa những người lính cùng chiến tuyến, điều kiện tiên quyết làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc.

Có thể phân chia tác phẩm ra làm ba phần chính, phần một (7 câu thơ đầu), nêu ra cơ sở chính để hình thành tình đồng chí, phần hai (11 câu thơ tiếp theo) thể hiện tình cảm gắn bó giữa những người lính và vẻ đẹp của hình tượng người lính, phần cuối (3 câu thơ còn lại) cảm hứng lãng mạn cách mạng, những hình tượng có ý nghĩa biểu trưng cho người lính chiến.

Những người lính trong thơ của Chính Hữu đều có một xuất thân nghèo khó, đứng lên từ những vùng đất sỏi đá, khô cằn nơi miền trung nắng gió khắc nghiệt “chó ăn đá gà ăn sỏi”. Họ đến từ những vùng quê khác nhau, chưa từng quen biết, thế nhưng trên cơ sở cùng chung một lý tưởng chiến đấu, cùng một niềm tin về đất nước ngày mai được tự do, độc lập. Đặc biệt là trong viễn cảnh chiến đấu khắc nghiệt, gian khổ, việc cùng sát cánh bên nhau chiến đấu, cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm đã trở thành chất liên kết bền chặt mang tên “Đồng chí”, đưa họ thành những người tri kỷ, thân thiết như anh em ruột thịt một nhà. Trở thành cơ sở vững chắc cho cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân ta.

Ở những dòng thơ tiếp theo hình tượng người lính hiện lên một cách thật chân thực với những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý. Họ là những người con chấp nhận rời bỏ quê hương, rời bỏ cuộc sống yên ấm, rời bỏ nhà cửa, người thân để bước ra chiến tuyến, đi theo tiếng gọi của Tổ quốc thân thương, sẵn sàng hy sinh tất cả mọi thứ để đổi lấy một ngày mai đất nước được hòa bình. Trong suốt quãng thời gian chiến đấu, người lính trong kháng chiến đã phải chịu nhiều khó khăn vất vả, đó không chỉ là những hiểm nguy bom đạn, mà còn là sự thiếu thốn vật chất, tinh thần, quân nhu yếu phẩm. Đặc biệt là sự hoành hành của căn bệnh sốt rét, nỗi ám ảnh kinh hoàng suốt một đời lính của nhiều chiến sĩ cách mạng. Bên cạnh đó, hình tượng người lính còn xuất hiện với những hình ảnh chân thực, giản đơn, phản ánh rất rõ nét một thời chiến đấu oai hùng gian khó, đó là cảnh, áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày, và họ phải chịu đựng cái hoang lạnh khắc nghiệt của vùng núi rừng Việt Bắc để tiếp tục chiến đấu. Đó là một sức mạnh phi thường, một nghị lực vượt bậc mà chỉ có những con người cách mạng, mang trong mình lý tưởng cao đẹp, phấn đấu vì đất nước mới có được, một vẻ đẹp của thời đại anh hùng.

Bên cạnh những hiện thực khắc nghiệt “rừng hoang sương muối”, thế nhưng tình đồng chí cao đẹp, gắn bó vẫn tỏa sáng chói lòa, sưởi ấm trái tim mỗi một người lính, khiến tinh thần chiến đấu của họ càng trở nên mạnh mẽ, chủ động hơn trong hình ảnh “chờ giặc tới”. Đặc biệt hình ảnh “đầu súng trăng treo” là một hình ảnh khá thú vị, có ý nghĩa hình tượng sâu sắc, trong khi trăng gắn liền với sự hòa bình, dịu êm, niềm vui sum họp đoàn tụ, thì súng chính là biểu tượng của tinh thần chiến đấu bất diệt vì độc lập tự do. Có thể thấy rằng thơ Chính Hữu phần nhiều là phản ánh hiện thực chiến trường khắc nghiệt nhưng vẫn len lỏi, cài cắm một chút tinh thần lãng mạn cách mạng, tạo thêm niềm tin và sức mạnh trong chiến đấu, cũng là một nét nghệ thuật độc đáo trong phong cách sáng tác của Chính Hữu.

Những người lính trong thời kháng chiến chống Mỹ là đề tài quen thuộc trong thơ ca cách mạng. Chính Hữu cũng góp vào kho tàng ấy một tác phẩm tiêu biểu là bài thơ “Đồng chí”

Chính Hữu Sinh năm 1926 mất năm 2007 tên thật là Trần Đình Đắc quê ở huyện Cam Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Ông vừa là nhà thơ vừa là người chiến sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Chính Hữu chủ yếu viết về đề tài người lính và chiến tranh. Thơ của ông mộc mạc giản dị giàu chất hiện thực cảm xúc dồn nén hình ảnh và ngôn ngữ có chọn lọc hàm xúc. Năm 2000 ông được trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật các tác phẩm tiêu biểu như “Đầu súng trăng treo”, “Ngọn đèn đứng gác”,..

Bài thơ Đồng chí được sáng tác vào đầu năm 1948 khi tác giả cùng đồng đội của mình tham gia vào Chiến dịch Việt Bắc Thu Đông đã đánh bại cuộc chiến công với quy mô lớn của Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ được in trong tập thơ Đầu Súng Trăng Treo 1966.

Về bố cục bài thơ có thể chia làm 2 phần. Phần thứ nhất gồm 7 câu thơ đầu nói lên cơ sở hình thành tình đồng chí và phần thứ hai gồm 13 dòng thơ còn lại là biểu hiện và sức mạnh của tình đồng chí. Các câu thơ đã phản ánh chân thực và sâu sắc nội dung của bài thơ.

Bài thơ đã thể hiện tình đồng chí đồng đội gắn bó keo sơn trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ là những người nông dân từ miền quê nghèo có ra đi cùng chung nhiệm vụ mục đích và lý tưởng chiến đấu cùng chia sẻ những khó khăn gian khổ với nhau. Bên cạnh đó vượt lên trên những gian khổ khó khăn thiếu thốn là tình đồng chí đã vượt lên để chiến thắng kẻ thù.

Thêm vào đó bài thơ cũng thành công bởi sự phối hợp nghệ thuật một cách đặc sắc. Đó là thể thơ tự do hình ảnh thơ chân thực giản dị ngôn ngữ thơ giàu cảm xúc sử dụng các thành ngữ câu thơ sóng đôi đối xứng và một loạt các biện pháp liệt liệt kê ẩn dụ.

Có thể nói đồng chí là thành công sớm nhất của thơ ca cách mạng và kháng chiến. Nó đã góp phần mở ra phương hướng khai thác rất thương và vẻ đẹp của người lính trong cái bình dị đời thường chân thật.

Gắn với tên tuổi của nhà thơ Chính Hữu là bài thơ Đồng Chí. Kháng chiến đã đi xa có những người phải vùi mình ở nơi đất khách quê người cũng có những người sống sót trở về Nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì những người lính vẫn sẽ hướng về với nhau hướng về tình đồng đội cao đẹp năm nào. Bởi lẽ đó mà dù thời gian có trôi nhanh thế nào thì bài thơ Đồng chí vẫn sẽ để lại trong lòng bạn đọc dấu ấn khó phai.

“Đồng chí” là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua một hành trình nửa thế kỉ làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.

Hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho bạn đọc trẻ ngày nay.

Bài thơ “Đồng chí” ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946-1954).

Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt” người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:

Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi “nước mặn, đồng chua”, là xứ sở “đất cày lên sỏi đá”. Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.

Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ “đôi người xa lạ” rồi “thành đôi tri kỉ”, về sau kết thành “đồng chí”. Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: “Anh với tôi đôi người xa lạ – Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:

“Súng bên súng” là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu; “anh với tôi” cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới “thành đôi tri kỉ”. “Đôi tri kỉ” là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ “đồng chí” làm diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành – đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, không bao giờ có thể quên:

(“Chiều mưa đường số 5” – Thâm Tâm)

Ba câu thơ tiếp theo nói đến hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ: nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:

Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa: “Cây đa cũ, bến đò xưa… Gốc đa, giếng nước, sân đình…”, được Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận ?

Hay “người ra lính” vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng quê hương ? Có cả 2 nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời, tình yêu quê hương đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nên sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa. Cùng nói về nỗi nhớ ấy, trong bài thơ “Bao giờ trở lại”, Hoàng Trung Thông viết:

Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến buổi đầu! Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác,… nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khó khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men…. Người lính ra trận “áo vải chân không đi lùng giặc chinh”, áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, “Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”:

Chữ “biết” trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ: “anh với tôi”, “áo anh… quần tôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao đẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: “Miệng cười buốt giá” thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tình thương đồng đội được hiểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: “tay nắm lấy bàn tay”. Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, “đi tới và làm nên thắng trận”.

Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ – hai đồng chí trong chiến đấu. Họ cùng “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Cảnh tượng chiến trường là rừng hoang sương muối. Và, một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu. Trong gian khổ ác liệt, trong căng thẳng “chờ giặc tới”, hai chiến sĩ vẫn “đứng cạnh bên nhau”, vào sinh ra tử có nhau. Đó là một đêm trăng trên chiến khu, một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:

“Đầu súng trăng treo”.

Người chiến sĩ trên đường ra trận thì “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông “rừng hoang sương muối” thì có “đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực vừa mộng, về khuya trăng tà, trăng lơ lửng trên không như đang treo vào đầu súng. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hi sinh. “Đấu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ, anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thèm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ – Đóa hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu,trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vắng lặng của chiến trường, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh “chờ giặc tới”. Mọi gian nan căng thẳng của trận đánh sẽ diễn ra (?) đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng của vầng trăng, và chính đó cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu.

Bài thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì buổi đầu kháng chiến.

Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tinh. Tục ngữ thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.

“Đồng chí” là bài thơ rất độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ – người nông dân mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng.

Đã có không ít những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ trong cách mạng, các cuộc cách mạng đã trở thành cái nôi của nhà văn Việt Nam. Trong số những nhà văn đó không thể không nhắc đến Chính Hữu, nhà văn đã sáng tác những vần thơ đầu tiên trong khi đang tham gia Chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông. Lần đầu tiên trong thơ ca cách mạng chúng ta được biết đến cái tên gọi “Đồng chí”, cách gọi gợi lên bao sự thân thương và gắn bó keo sơn, ca ngợi tình cảm đồng đội giữa những người lính bộ đội cụ Hồ.

Chính Hữu (1926 – 2007) tên thật là Trần Đình Đắc, sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Can Lộc – Hà Tĩnh, năm 20 tuổi ông đã gia nhập Trung đoàn Thủ đô, tham gia cả hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sống giữa chiến tranh, giữa những người lính xa nhà, Chính Hữu đã bắt đầu sáng tác thơ, nguyên liệu làm nên thơ của ông cũng chính từ chiến tranh, ông viết nhiều về người lính, chiến tranh. Thơ của Chính Hữu rất mộc mạc, gần gũi, giản dị và giàu chất hiện thực, ông có ít sáng tác nhưng lại là những bài thơ đặc sắc, một số bài tiêu biểu như tập thơ “Đầu súng trăng treo” và “Đồng chí”. Chính Hữu không chỉ là một nhà thơ, một người chiến sĩ mà sau này ông còn là nhà hoạt động cách mạng, nguyên là Đại tá, Phó cục trưởng cục Tuyên huấn thuộc Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Phó tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam. Với những cống hiến của mình cho cách mạng và văn học nước nhà, năm 2000 Chính Hữu đã được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật.

Tác phẩm đã ghi dấu tên tuổi của Chính Hữu đó chính là bài thơ “Đồng chí”, bài thơ được sáng tác trong hoàn cảnh Chính Hữu đang cùng đồng đội tham gia Chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông, in trong tập thơ “Đầu súng trăng treo”. Bài thơ có bố cục rõ ràng gồm 2 phần, phần thứ nhất nói về cơ sở hình thành nên tình đồng chí giữa những người lính, phần thứ hai nói về tình đồng chí đồng đội, ý nghĩa của tình đồng chí với người lính. Cơ sở để hình thành nên tình đồng chí xuất phát từ sự tương đồng về cảnh ngộ, xuất thân, các anh đều vác ba lô ra đi từ những miền quê nghèo “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”, tất cả đều là xuất thân từ nông dân, nghèo đói và lam lũ vất vả, mỗi người một phương để rồi chẳng hẹn trước mà trở thành đồng đội. Tình đồng chí của người lính là thứ tình cảm cao đẹp, ở họ có nhiều điểm chung tương đồng, đó là chung một mục đích và lý tưởng chiến đấu, chung một hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, chung một ý chí vươn lên để hoàn thành nhiệm vụ. Những người đồng chí không chỉ đồng cam cộng khổ với nhau mà còn chia sẻ, kề vai sát cánh bên nhau, ở nơi chiến trường họ là người thân ruột thịt của nhau, coi nhau như anh em để mà thương yêu, đùm bọc lẫn nhau, trở thành tri kỉ của nhau “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Chỉ bằng những hiện thực giản dị từ cuộc sống người lính cũng như hiện thực tàn khốc của chiến tranh, bài thơ “Đồng chí” đã mang đến cho người đọc những rung cảm tuyệt vời nhất về tình đồng chí của những người lính, khơi gợi trong chúng ta sự biết ơn tới các chiến sĩ, nhớ về thời gian khổ và chiến đấu anh dũng của quân dân ta. Bài thơ nổi bật với những hình ảnh gần gũi, mộc mạc mang đầy chất hiện thực, kết hợp với giọng thơ tâm tình như kể chuyện, biện pháp sóng đôi cùng thành ngữ đã khiến cho bài thơ có sức ngân vang, để lại dư âm sâu lắng trong lòng độc giả.

Kháng chiến đã trôi qua, có những người đã phải bỏ mạng nơi xứ người, có người may mắn được trở về quê hương, chẳng còn mấy đồng chí đồng đội còn được hội ngộ nhau trong ngày giải phóng. Thế nhưng có một điều chắc chắn rằng tình đồng chí của họ vẫn luôn tồn tại, luôn thôi thúc họ đi tìm nhau, hướng về nhau, giống như tình đồng chí trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu.

Trong dòng thơ ca về anh bộ đội cụ Hồ, Đồng chí của Chính Hữu ghi nhận một thành công xuất sắc. Giữa lúc chưa phải mọi nhà thơ đã bắt trúng ngay mạch đập của cuộc sống kháng chiến ở những năm đầu, Đồng chí (1948) đã cất lên một tiếng nói mới, chân thực về vẻ đẹp của người Vệ quốc quân, đã góp phần làm sáng tỏ bản chất và sức mạnh của những người cầm súng “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân

(1948)

Đồng chí là một bài thơ cô đúc, “tiết kiệm” trong từng hình ảnh, từng câu chữ. Bằng những chi tiết, những hình ảnh hết sức chân thật, cụ thể mà đầy tính chắt lọc, khái quát, bài thơ đã thể hiện một cách cảm động tình đồng chí gắn bó giữa những người nông dân mặc áo lính, cùng chiến đấu giữ gìn độc lập tự do của Tổ quốc.

Toàn bộ tứ thơ của Đồng chí phát triển xoay quanh mối quan hệ giữa các nhân vật tôi và anh. Ở đây, nhà thơ đã hóa thân vào các nhân vật trữ tình – cũng là những đồng đội thân thiết với mình – để nói lên những hoàn cảnh, biểu hiện những tâm trạng, tình cảm của họ.

Advertisement

Mối quan hệ anh – tôi được giới thiệu ngay từ lúc mở đầu. Họ đều là những người nông dân mặc áo lính ra đi từ các làng quê nghèo, làm ăn vất vả, gian nan. Những con người khổ nghèo ấy vừa được Cách mạng giải phóng và giờ đây gắn bó thắm thiết vì mục đích của cuộc chiến đấu. Sự gắn bó trong quân đội cách mạng giữa những người nông dân “tứ xứ” này cũng được Hồng Nguyên thể hiện một cách hồn nhiên trong phần mở đầu bài Nhớ:

Từ “đôi người xa lạ” đến “thành đôi tri kỉ”, từ “chẳng hẹn quen nhau” đến “đêm rét chung chăn”- đó dường như là sự gặp gỡ, gắn bó tình cờ nhưng thực lại rất tự nhiên và tất nhiên bởi những con người này cùng chiến đấu, hi sinh vì một lý tưởng cao cả. Hai câu thơ mà chứa đựng, liên kết được nhiều hình ảnh sinh động:

Chính Hữu đã dùng một từ “cũ”, từ Hán Việt để diễn tả một tình cảm rất mới. Chữ “tri kỷ” đã tô đậm thêm sự sâu đằm, bền chặt của tình cảm ở đây. Thực chất của mối tri kỷ này là tình đồng chí. Chính vì thế, từ “đồng chí” được tác giả được tác giả tách riêng thành một dòng thơ. Đây là chi tiết nghệ thuật quan trọng. Nó chính là cái bản lề khép mở, nối kết hai phần của bài thơ.

Có thể xem dòng thơ hết sức ngắn này là một tiếng gọi tha thiết, trang nghiêm từ đáy lòng những người nông dân mặc áo lính vừa được gắn bó với nhau trong một quan hệ mới (Sau chữ “đồng chí” có dấu cảm thán). Muốn hiểu hết ý nghĩa của tiếng gọi đó, cần trả nó về hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Trước Cách mạng thành công – ở thời kỳ giác ngộ lý tưởng cộng sản, theo Đảng đoàn kết hy sinh giành quyền độc lập tự do; trong những năm đầu kháng chiến gian nan – khi toàn dân đang nhất tề đứng lên theo lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thà quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” – ở những năm tháng, những thời điểm ấy, nghĩa đồng bào, đồng chí thật thiêng liêng và hết sức được trân trọng (Chữ “đồng chí” chúng ta dùng bây giờ hẳn khác). Tính chất thiêng liêng, niềm trân trọng này lại càng được nhân lên gấp bội đối với những người nông dân – vốn là những con người lam lũ, làm ăn cá thể, nay được Cách mạng giải phóng và cuộc đời được rọi chiếu trong ánh sáng thời đại mới. Vì thế, chúng ta thêm hiểu vì sao Chính Hữu lại đặt tên bài thơ của mình là Đồng chí mà không lấy một cái tên khác, chẳng hạn “đồng đội”. Quả thật, chữ “đồng chí” hàm nghĩa cao rộng hơn, mà cũng sâu hơn. Nghĩa đồng chí, một mặt, là cơ sở, là nền tảng; mặt khác, cũng là cốt lõi, là bản chất của tình đồng đội. Về cuối cuộc kháng chiến chín năm, khi chứng kiến chủ nghĩa anh hùng cao cả của quân đội ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Chính Hữu như nhận thức được rõ thêm, cụ thể thêm tình đồng đội:

(Giá từng thước đất)

Đó là một bước cụ thể hóa tình đồng chí. Còn lúc này (1948) – ở buổi đầu kháng chiến – cái cần nhấn mạnh là sự tập hợp, là sự cùng chí hướng trong thử thách gian nan. Cái tên của bài thơ, sự tách riêng thành một dòng thơ của từ “đồng chí” mang ý nghĩa ấy.

Vừa dồn tụ cảm xúc ở sáu dòng thơ trước, dòng thơ chỉ một từ này đồng thời đóng vai trò mở chuyển cho cả phần sau. Đối với các nhân vật trữ tình (tôi và anh) từ “đồng chí” còn như khắc ấn một khái niệm mới mẻ mà cả phần sau của bài thơ là sự vỡ lẽ, sự nhận thức nhau rõ hơn để cảm thông, gắn bó với nhau máu thịt hơn. Đồng chí – ấy là gửi lại ruộng nương, từ biệt giếng nước gốc đa để cùng “ra lính” giữ gìn độc lập tự do của đất nước. Đồng chí– ấy là chịu chung “từng cơn ớn lạnh”, từng trận “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Đồng chí – ấy là sự sẻ chia và động viên nhau trong thiếu thốn của cuộc sống kháng chiến:

Tình đồng chí thắm thiết khiến cho các anh nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ nhất của đời sống. Điều đáng chú ý là bao giờ họ cũng nhìn bạn, nghĩ về bạn trước rồi sau đó mới nhìn mình, nghĩ về mình. Từ đầu đến cuối bài Đồng chí, trong cặp nhân vật trữ tình, bao giờ anh cũng xuất hiện trước, cũng đứng trước tôi (Lần 1: “Quê hương anh… Làng tôi”. Lần 2: “Anh với tôi đôi người xa lạ”. Lần 3: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh…”. Lần 4: “áo anh… Quần tôi…”). Cái “quy luật” trên bề mặt ngôn ngữ ấy phải chăng phản ánh một nét đẹp trong chiều sâu tình cảm: thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Nó trái hẳn với lối sống “tự kỷ trung tâm” của con người tư sản. Nó chứng tỏ niềm đồng cảm sâu sắc giữa những người cùng cảnh ngộ, cùng nghĩa vụ.

Nếu đầy đủ thương nhau đã quý. Nhưng càng gian khổ, càng thiếu thốn lại càng thương nhau, ấy mới là điều đáng quý hơn ở những người chiến sĩ cách mạng. Nhịp ngắt của đoạn thơ trên ngắn, chậm. Từng câu thơ gọn. Mỗi câu nêu một chi tiết hết sức cụ thể. Từng chi tiết cô gọn ấy cứ lần lượt khắc sâu vào lòng người đọc. Khắc sâu ấn tượng rồi để mở ra – mở ra biết mấy tâm tình, xúc cảm ở câu thơ cuối đoạn được trải dài hơn:

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Dường như đây là cao trào của cảm xúc yêu thương trong người chiến sĩ. Thương nhau vô cùng trong cử chỉ “tay nắm lấy bàn tay”. Nhưng cũng cứng rắn, nghị lực vô cùng bởi cử chỉ ấy chỉ có khi những người chiến sĩ đã ý thức đầy đủ về hoàn cảnh của đất nước kháng chiến, về nghĩa vụ cao cả của mình. Cử chỉ ấy dường như chứa đựng sự tự ý thức, tự nhận thức, bao hàm lời tự dặn mình và dặn dò nhau. Tình cảm không bồng bột mà đằm sâu.

Chính quá trình nhận thức rõ về tình đồng chí, chính bước phát triển cao của tình yêu thương lẫn nhau như trên đã dẫn đến đoạn kết thúc độc đáo:

Ba câu thơ mà nói được rất nhiều điều. Đó là hoàn cảnh chuẩn bị chiến đấu – đặc điểm không gian và thời gian: đêm nay– rừng hoang – sương muối. Đó là tình đồng chí keo sơn trong gian khổ, là tinh thần sẵn sàng vào trận: “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là tâm hồn đầy chất thơ của anh Vệ quốc quân và ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến đấu của chúng ta: “đầu súng trăng treo”.

Không phải ngẫu nhiên mà sau này Chính Hữu đặt tên cho một tập thơ của mình là Đầu súng trăng treo. Cũng không phải tự nhiên mà trên nhiều bìa sách, nhiều bức họa sách của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân thường xuất hiện hình ảnh này. Nhà thơ đã sáng tạo được một hình ảnh thật độc đáo, giàu sức khái quát. Đầu súng – thể hiện của chiến tranh, của khói lửa; trăng treo – hình ảnh của thiên nhiên trong mát, của cuộc sống thanh bình. Sự kết hợp tự nhiên giữa đầu súng và trăng treo làm toát lên tâm hồn trong sáng, bay bổng của người chiến sĩ, làm toát lên ý nghĩa chân chính, cao cả của cuộc chiến tranh yêu nước. Chúng ta bền gan chiến đấu, gian khổ hy sinh chính vì vầng trăng ấy, vì cuộc sống thanh bình. Hình ảnh và nhịp điệu thơ này lơ lửng, sóng sánh, vừa tạo hình vừa thật gợi cảm. “Đầu súng trăng treo” có gian khổ nhưng cũng có niềm vui, vừa là thực vừa mang tính biểu tượng. Nó toát lên chất lãng mạn cách mạng đậm đà thật khó phân tích hết bằng lời.

Nhanh chóng vượt ra khỏi những cảm xúc lạc lõng buổi đầu, đến Đồng chí, Chính Hữu đã đóng góp cho nền thơ kháng chiến một bài thơ xuất sắc về người chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam. Nếu như trước đó chưa đầy một năm, anh bộ đội kháng chiến còn bước vào thơ Chính Hữu với “đôi giầy vạn dặm”, chiếc “áo hào hoa” thì giờ đây anh xuất hiện trong Đồng chí với chiếc áo rách vai, chiếc quần có vài mảnh vá, với đôi chân không giày và với tâm hồn mộc mạc, đằm thắm, đầy mến thương trong gian khổ. Đồng chí cũng thể hiện rõ phong cách thơ độc đáo của Chính Hữu: ít lời để gợi nhiều ý, ngòi bút biết tinh lọc, cô đúc trong từng chi tiết, từng hình ảnh để vừa cụ thể, vừa giàu tính khái quát, câu thơ chắc gọn bên ngoài lại ẩn chứa một tâm hồn thiết tha, da diết tự bên trong.

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Thể Thơ Thất Ngôn Bát Cú Đường Luật 3 Dàn Ý &Amp; 8 Bài Văn Hay Lớp 8 Hay Nhất trên website Bvta.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!