Xu Hướng 10/2023 # Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Khổ 4 Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu (3 Dàn Ý + 10 Mẫu) Phân Tích Khổ 4 Bài Việt Bắc # Top 10 Xem Nhiều | Bvta.edu.vn

Xu Hướng 10/2023 # Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Khổ 4 Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu (3 Dàn Ý + 10 Mẫu) Phân Tích Khổ 4 Bài Việt Bắc # Top 10 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Khổ 4 Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu (3 Dàn Ý + 10 Mẫu) Phân Tích Khổ 4 Bài Việt Bắc được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Bvta.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Dàn ý phân tích đoạn 4 bài Việt Bắc

Dàn ý số 1

I. Mở bài

– Việt Bắc là tập thơ xuất sắc của Tố Hữu nằm trong tập thơ Việt Bắc, sáng tác trong giai đoạn 1946 – 1954.

– Bằng lối đối đáp và cách sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình – ta” quen thuộc của ca dao, bài thơ như một bài hát giao duyên thể hiện ân tình sâu đậm giữa đồng bào Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến về xuôi.

– Đoạn thơ này là lời người cán bộ kháng chiến về xuôi đáp lại lời nhắn nhủ của đồng bào Việt Bắc. Trong đoạn thơ, ta thấy cảnh vật và con người Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ người đi thật đẹp và cũng thật tình nghĩa. Nỗi nhớ ấy thật thiết tha và sâu đậm, bao phủ cả không gian, thời gian và đầy ắp tâm trạng của người cán bộ kháng chiến.

II. Thân bài

1. Mở đầu đoạn thơ là lời đáp của người ra đi khẳng định tình cảm thuỷ chung của mình:

– Người ra đi đã khẳng định “mình đi, mình lại nhớ mình” là để trả lời cho câu hỏi đặt ra của đồng bào Việt Bắc ở trên (“Mình đi mình có nhớ mình”…). Đây là lời khẳng định: người cán bộ kháng chiến về thành nhưng vẫn nhớ đến những ngày sống ở chiến khu Việt Bắc. Nói cách khác, đây là lời khẳng định phẩm chất đạo đức của người cán bộ kháng chiến.

– “Ta – mình”, “mình – ta” quấn quýt, quyện hoà, ta với mình là một. Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh. Đinh ninh là sự khẳng định chắc chắn, mãi mãi, gắn bó, thuỷ chung với Việt Bắc. Việt Bắc là cái nôi cội nguồn của cách mạng làm sao dễ dàng quên.

– Sự so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã khẳng định sự chung thuỷ son sắt với Việt Bắc như tình yêu đôi lứa bền chặt, mãi mãi, không bao giờ cạn như nguồn nước kia.

+ Trong tâm thức của người Việt Nam, nước nguồn được chảy ra vì công lao, tình nghĩa vô bờ bến của người mẹ, tuôn chảy bất tận không bao giờ cạn. Bao nhiêu nước thì bấy nhiêu nghĩa tình sâu nặng, như nghĩa mẹ tình cha.

+ “Bao nhiêu” được so sánh với “bấy nhiêu”. Đó là cách so sánh giữa một sự vô tận với một sự vô tận. Đọc câu thơ, ta có cảm giác dường như đó không còn là những dòng chữ im lặng nữa mà là tiếng lòng được thốt lên từ một trái tim tràn đầy xúc động của kẻ ở người về trong giây phút li biệt.

2. Nhớ thiên nhiên thanh bình, yên ả và thơ mộng:

– Nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến đối với Việt Bắc vừa đa dạng, vừa cụ thể. Trong cuộc đời, có mảnh đất nào đã đi qua, đã từng gắn bó mà khi ra đi lại không để thương nhớ cho lòng người. Trong hoài niệm của nhà thơ, Việt Bắc không chỉ là những ngày mưa rừng sương núi mà còn là một vùng đất thơ mộng, thanh bình, yên ả gợi bao nỗi nhớ niềm thương:

+ Nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như “nhớ người yêu”. Một nỗi nhớ cháy bỏng, tha thiết, mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là phải xa nhau thì nỗi nhớ càng cồn cào, da diết khôn nguôi. Dường như nỗi nhớ của người cách mạng với thiên nhiên, với đồng bào Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Vì vậy, cảnh và người phút chốc lại trở về vơi đầy trong tâm trí của người ra đi.

+ Nỗi nhớ ấy vừa được so sánh với “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương”, vừa gắn với không gian, thời gian đầy ắp kỉ niệm:

“Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương” vừa là cảnh thật vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Trăng là ban đêm, nắng là ban ngày. Như vậy, nỗi nhớ ở đây bao trùm khắp cả không gian và thời gian.

Nỗi nhớ còn rộng lớn, bao phủ khắp không gian, “đầu núi”, “lưng nương”, từ “rừng nứa”, “bờ tre” đến “ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”. Nhớ những đêm trăng sáng yên ả, thanh bình, những buổi chiều nắng trải vàng ấm áp trên nương. Nhớ cảnh núi đèo, bản làng chìm trong sương khói, cảnh bếp lửa bập bùng trong mỗi đêm đông và hình ảnh con người thân thương, tảo tần đi về hôm sớm.

+ Điệp từ “nhớ” đặt đầu các câu thơ làm nổi bật lên nỗi nhớ ngày càng mênh mông, bất tận. Ở đoạn thơ này, thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm “những mây cùng mù” mà ấp áp, vui tươi. Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực vừa mộng, vừa đơn sơ vừa thi vị, gợi rõ nét sự riêng biệt, độc đáo, khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những con người sống, gắn bó máu thịt với Việt Bắc mới có cái nhìn toàn diện, có nỗi nhớ da diết và cảm nhận sâu sắc, thấm thía đến như thế:

(Chế Lan Viên)

Đối với những mảnh đất giàu tình nghĩa, khi ta sống ở đó rồi, lúc ra đi ta cảm thấy trái tim cứ dày lên biết bao nỗi vấn vương thương nhớ, nhớ cả những vật vô tri tầm thường nhất mà ta vô tình bắt gặp:

3. Nhớ nhất là nếp sống của con người Việt Bắc vô cùng gian khổ nhưng nghĩa tình sâu nặng:

– Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc tuy nghèo khó nhưng là những con người giàu tình nghĩa. Họ sẵn sàng chia sẻ cho người cán bộ kháng chiến từng “bát cơm”, “củ sắn lùi”, mảnh “chăn sui”. Hình ảnh thơ thật mộc mạc, giản dị như chính bản thân cuộc sống vậy. Ở đây không phải sẻ chia những gì lớn lao như tính mệnh hay xương máu, mà sẻ chia những sự vật bình thường nhỏ nhoi hàng ngày. Quả chẳng là đáng bao nhiêu nhưng nghĩa tình thì rất nặng. Cuộc sống những ngày ấy tình quân dân như cá với nước, thân tình như trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.

III. Kết bài

– Đoạn thơ là tiếng lòng của người cán bộ kháng chiến về xuôi đối cảnh vật và con người Việt Bắc. Trong nỗi nhớ của người ra đi, cảnh vật Việt Bắc hiện lên thật gần gũi thân thương và thật đẹp; con người Việt Bắc tuy đời sống thiếu thốn, gian khổ nhưng đầy tình nghĩa.

– Thể thơ lục bát quen thuộc và những hình ảnh được lấy ra từ đời sống thực tế, điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần góp phần thể hiện thành công nỗi nhớ vừa chân thành tha thiết, vừa mênh mông bất tận của người cán bộ về xuôi đối với Việt Bắc, tạo nên sự rung động sâu sắc trong lòng người đọc

Dàn ý số 2

1. Mở bài

– Giới thiệu về bài thơ Việt Bắc

– Khái quát nội dung khổ thơ thứ 4

2. Thân bài

– Mượn lối đối đáp trong ca dao cùng lối xưng hô “mình-ta” làm cho lời thơ trở nên tha thiết, ngọt ngào.

– “Ta với mình, mình với ta” câu thơ thể hiện sự đồng điệu, thống nhất trong tình cảm của người đi- người ở lại.

– Tình cảm thủy chung, trước sau như một “sau trước mặn mà đinh ninh”

– Cách so sánh độc đáo “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”:

“Nguồn” là nơi bắt đầu của dòng nước, lúc nào cũng dồi dào, không bao giờ vơi cạn

Tình cảm của người cách mạng luôn sục sôi, đong đầy, không vì hoàn cảnh thay đổi mà trở nên đổi thay.

– “như nhớ người yêu” cụ thể hóa nỗi nhớ: tha thiết, trào dâng, luôn thường trực.

– Hình ảnh “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương” mở ra bức tranh đẹp của núi rừng và nỗi nhớ thường trực ngày đêm trong trái tim người cách mạng.

– Nỗi nhớ mở rộng theo không gian và thời gian:

Nhớ về tất cả những gì thân thuộc nhất: rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê

Nhớ về những ngày tháng đồng cam cộng khổ chia sẻ những “đắng cay ngọt bùi”

3. Kết bài

Khái quát giá trị nội dung, nghệ thuật của đoạn trích.

Dàn ý số 3

1. Mở bài

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm

+ Tố Hữu là nhà thơ của lý tưởng cộng sản, lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam.

+“Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng và thơ ca chống Pháp nói chung. “Việt Bắc” chính là khúc tình ca, khúc tráng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu đất nước, niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, truyền thống ân tình, ân nghĩa, đạo lí thủy chung của dân tộc Việt Nam.

2. Thân bài

a. Mở đầu đoạn thơ là lời đáp của người ra đi khẳng định tình cảm thuỷ chung của mình:

– Tình nghĩa thủy chung sâu nặng của cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc. (Từ đầu đến “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”)

+ Mình về mình có nhớ ta/ Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng

Hai đại từ nhân xưng “mình – ta” được sử dụng một cách ngọt ngào sâu lắng thấm đậm chất ca dao. “Mình” là chỉ người ra đi, “ta” là chỉ người ở lại.

Cụm từ “mười lăm năm” là trạng ngữ chỉ thời gian, chỉ độ dài gắn bó nhớ thương vô hạn giữa người đi kẻ ở. Bốn chữ “thiết tha mặn nồng” đã cho thấy tình cảm giữa Việt bắc và người cán bộ thật chung thủy sâu nặng, keo sơn bền chặt.

+ “Bâng khuâng” nghĩa là nhớ nhung luyến tiếc, vui buồn lẫn lộn, “bồn chồn” là từ láy diễn tả tâm trạng cảm xúc day dứt, hồi hộp, nôn nao trong lòng khiến cho bước chân đi cũng ngập ngừng, bịn rịn không muốn chia xa.

+“Áo chàm” là hình ảnh hoán dụ chỉ nhân dân Việt Bắc trong buổi tiễn đưa.

+“Cầm tay” là biểu tượng của tình yêu thương đoàn kết.

+ Sáu câu hỏi của người ở lại khơi sâu vào những kỉ niệm về một chiến khu gian khó mà nghĩa tình, thủy chung.

Điệp từ “nhớ” lặp lại 5 lần

3. Kết bài:

Tổng kết lại vấn đề

Phân tích khổ 4 Việt Bắc – Mẫu 1

Việt Bắc là bản anh hùng ca mạnh mẽ, hào hùng cũng là khúc tình ca ngọt ngào, tha thiết về tình nghĩa quân dân trong kháng chiến. Đặc biệt, trong khổ thơ thứ 4, nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện đầy xúc động tình cảm gắn bó, nghĩa tình thủy chung, son sắc giữa giữa người ra đi và người ở lại ; những người chiến sĩ cách mạng với con người, vùng đất chiến khu.

Mượn lối đối đáp trong ca dao cùng lối xưng hô “mình-ta”, nhà thơ Tố Hữu không chỉ mở ra trước mắt người đọc không khí lưu luyến, bịn rịn của buổi chia ly mà còn mang đến âm hưởng ngọt ngào, tha thiết tựa như một lời tâm tình:

“Ta với mình, mình với ta” tuy hai nhưng là một, câu thơ thể hiện sự đồng điệu, thống nhất trong tình cảm của người đi- người ở lại. Câu thơ cũng là lời hồi đáp chắc chắn nhất về tình cảm của người ta đi “sau trước mặn mà đinh ninh”. Những tình cảm gắn bó đã có với con người và vùng đất chiến khu sẽ mãi vẹn nguyên, sống động trong trái tim, tâm hồn của những người chiến sĩ cách mạng, trước đây như thế nào thì sau này cũng sẽ như vậy. Cách so sánh “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” đã bộc lộ trọn vẹn tấm lòng, tình cảm của người ra đi. “Nguồn” là nơi bắt đầu của dòng nước, bởi vậy mà lúc nào cũng dồi dào, mạnh mẽ, không bao giờ vơi cạn, nó cũng giống như tình cảm của người cách mạng, luôn sục sôi, đong đầy, không vì hoàn cảnh thay đổi mà trở nên đổi thay. Cách so sánh tự nhiên, mộc mạc nhưng lại thành công khơi dậy những tình cảm ấm áp, chân thành của người ở lại.

Trong những câu thơ tiếp theo, nhà thơ Tố Hữu tiếp tục giãi bày nỗi nhớ, tình thương thông qua những câu thơ ngọt ngào, giàu hình ảnh. Nỗi nhớ vốn vô hình, khó diễn tả bằng lời lại được nhà thơ cụ thể hóa qua một cảm xúc cụ thể “như nhớ người yêu”. Cách so sánh độc đáo, dễ gợi những liên tưởng đã thể hiện được tình cảm tha thiết, trào dâng trong lòng mỗi người chiến sĩ khi chia tay con người, vùng đất chiến khu để trở về xuôi. Hình ảnh “Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương” không chỉ mở ra bức tranh đẹp của núi rừng Việt Bắc mà còn khéo léo diễn tả nỗi nhớ luôn sục sôi, thường trực ngày đêm, bao trùm cả không gian và thời gian.

Rời xa Việt Bắc, nhưng những hình ảnh thân quen của cuộc sống, con người vẫn đong đầy nơi trái tim của những người chiến sĩ trẻ. Đó là những làn khói bảng lảng, là không gian mờ sương của núi rừng, là hơi ấm bếp lửa, là hình ảnh người thương “sớm khuya bếp lửa người thương đi về”. Nỗi nhớ còn được cụ thể qua những hình ảnh, địa danh quen thuộc: rừng nứa, bờ tre, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…Tính từ “vơi đầy” trong câu thơ “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy” được sử dụng rất khéo, nó không chỉ gợi ra cái cáu đong đầy của nước nơi sông suối mà còn là cái đong đầy của tình cảm trong tâm hồn của người ra đi.

Trở về miền xuôi, những người chiến sĩ không nhớ về hình ảnh quen thuộc của núi rừng, người thương Việt Bắc mà còn mang theo cả những kỉ niệm gắn bó trong những ngày tháng gian khổ nhất. “Đắng cay ngọt bùi” là những gian khổ, vất vả mà những người chiến sĩ đã cùng con người Việt Bắc trải qua. Tình cảm được khẳng định trong hoàn cảnh gian khó càng trở nên ý nghĩa hơn cả vì trong hoạn nạn mới thấy chân tình.

Sử dụng thể thơ lục bát đậm chất dân tộc kết hợp với lối đối đáp quen thuộc trong ca dao, nhà thơ Tố Hữu đã mang đến bức tranh đầy màu sắc về những ân tình thủy chung của người ra đi và người ở lại. Đó là những nghĩa tình được tạo dựng bởi sự chân thành, gắn bó trong những ngày tháng gian khổ nhất của cả dân tộc, bởi vậy dẫu có chia xa về địa lí, khoảng cách thì tình cảm của người ra đi vẫn luôn cháy bỏng, trước sau như một.

Phân tích khổ 4 Việt Bắc – Mẫu 2

Tố Hữu đã dành hết tình cảm của mình lên bài thơ Việt Bắc, những xúc cảm sâu sắc về hình ảnh của những người chiến sĩ cách mạng, họ gắn bó, nghẹn ngào nơi chiến trường xa xăm, nơi vùng núi Việt Bắc, nhưng tâm hồn của họ vẫn mang những nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ của sự thủy chung son sắt, cả bài thơ là nỗi nhớ và tấm lòng son sắt của những người chiến sĩ cách mạng.

Tấm lòng thủy chung son sắt thể hiện sâu sắc qua từng lời thơ của Tố Hữu với cách xây dựng hình tượng độc đáo, nỗi nhớ đang dần dâng trào trong từng lời thơ của tác giả, với biết bao nhiêu cảm xúc đó, nỗi nhớ dường như đang chế ngự toàn không gian trong tác phẩm. Tấm lòng của những người chiến sĩ trước sau như một, vẫn luôn giữ tấm lòng thủy chung, son sắt, mặn lòng trước khung cảnh của quê hương vùng núi Việt Bắc, tấm lòng đó thể hiện qua tình nghĩa, những nỗi nhớ da diết về khung cảnh, quê hương nơi đây:

Ta với mình, mình với ta, ở đây nó như hòa chung để nói một chỉnh thể, chỉnh thể đó nghẹn ngào, có tấm lòng trước sau như một, tấm lòng son sắt, mình đi nhưng mình lại mình lại nhớ mình, nguồn có bao nhiêu nước thì bấy nhiêu tấm lòng thủy chung, của con người…. Nỗi nhớ đó thể hiện cảm xúc chủ đạo trong toàn bộ tác phẩm, hình ảnh mang những cảm xúc, dâng trào, nỗi nhớ cho con người, người đọc như đang hình dung, tưởng tượng những cảm xúc, những nghĩa tình và kỉ niệm gắn bó với những gì đã xa xôi, nơi đây tất cả giờ chỉ là kỉ niệm.

Tác giả còn so sánh tấm lòng thủy chung đó như nước trong nguồn, nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu… tất cả đang dần hòa trộn trong tâm hồn của những người chiến sĩ, tình cảm, tấm lòng đó son sắt, to lớn, mang đậm trong tâm hồn của những người chiến sĩ cách mạng.

Nỗi nhớ đó da diết được tác giả so sánh với nỗi nhớ người yêu, nó cồn cào, da diết, cháy bỏng trong tâm hồn của những người chiến sĩ, cảm xúc đó nghẹn ngào, mang đến cho người đọc biết bao nhiêu khát khao, cảm xúc trước nỗi nhớ, nghĩa tình, sâu lắng của những người chiến sĩ cách mạng, đang ngày đêm mong nhớ vùng đất mà từng gắn bó máu thịt, nơi nung nấu những tâm hồn cách mạng, thể hiện được tâm hồn của những người chiến sĩ, hết mình vì quê hương, hết mình vì sự nghiệp của đất nước:

Nỗi nhớ đó thể hiện qua nhiều hình ảnh, dòng sông mang nặng nghĩa tình, biết bao nhiêu hình ảnh về quê hương, đất nước, sớm khuya bên bếp lửa, mong đợi người thương đi về, hình ảnh rừng nứa, bờ tre tất cả đang thể hiện những cảnh vật gần gũi của những người chiến sĩ cách mạng, một thời đã từng gắn bó toàn tâm, toàn lực của mình với vùng đất nơi đây, tất cả đang hòa chung vào tâm hồn, của những người chiến sĩ, của cách mạng, của những năm tháng đã qua.

Những cảm xúc đó thể hiện cảm xúc dâng trào, với nỗi nhớ đó, sự ngọt bùi, đắng cay, cùng nhau chia sẻ, nhớ những năm tháng dày sương, gắn bó như máu thịt, biết bao đắng cay muôn phần đều có thể hoàn thành, nỗi nhớ về vùng đất quê hương, nơi ta đã từng gắn bó, thiết tha, cảm xúc về một miền nỗi nhớ quê hương, cảm xúc đang trào dâng trong tâm hồn của người lính.

Đoạn thơ đã nói lên tấm lòng thủy chung, son sắt của những người lính cách mạng, luôn hết mình vì dân tộc, nỗi nhớ đang dâng trào trong từng khoảnh khắc, nỗi nhớ, trào dâng trong tâm hồn của những người lính.

Phân tích khổ 4 Việt Bắc – Mẫu 3

Chế Lan Viên đã từng khẳng định Thơ cần có hình cho người ta thấy có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim. bắt rễ sâu xa từ hiện thực đời sống chính trị tưởng như không hề lãng mạn, chất thơ bay bổng trong tác phẩm của Tố Hữu đã làm rung động lòng người bởi những hình ảnh thân thương gần gũi và triết lý về con người và cuộc đời bởi tình người thắm thiết đậm đà không phôi pha theo thời gian. đoạn trích Việt Bắc là một trong những minh chứng tiêu biểu cho khả năng lay động trái tim con người tiêu biểu cho tài năng thơ phong cách thơ Tố Hữu một thi sĩ được mệnh danh là lá cờ đầu thơ ca cách mạng Việt Nam. Và đoạn thơ thứ tư là một trong những khúc ca của nỗi nhớ đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ bạn đọc.

Đoạn thơ tiếp nối những lời nhắn nhủ, tâm tình của người ở lại trao cho người ra đi.

Dường như thấu tỏ nỗi băn khoăn do dự đoán có nhớ không của người ở lại mình ra đi đã khẳng định chắc chắn sắt son câu trả lời vang lên như một lời thề. Cặp đại từ ta mình hòa quyện quấn quýt với lời thề thủy chung gắn bó. “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”, không bao giờ thay đổi, không bao giờ vơi cạn như nước nơi thượng nguồn. Câu thơ “nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” vừa là hình ảnh so sánh đậm màu sắc của văn học dân gian, giản dị mà sâu sắc, lại vừa như lời đồng vọng, nguyện thề trước lời nhắn nhủ thiết tha của người ở “…nhìn sông nhớ nguồn”. Cuộc chia tay của người dân Việt Bắc và con người kháng chiến cũng đầy bịn rịn, chất chứa nhiều nhớ thương nhưng không muốn đã đâm lễ khi những cuộc chia tay trong văn học cổ:

Có lẽ đây là cuộc chia tay của những con người vừa làm nên chiến thắng, đó là cuộc chia tay trong yêu thương và cả trong niềm vui niềm tin tưởng của ngày mai gặp lại.

Theo sau lời khẳng định thủy chung sắt son, nỗi nhớ cảnh là người Việt Bắc của về trong tâm trí người ra đi.

Theo Chế Lan Viên, thơ Tố Hữu nói các vấn đề bằng trái tim của một người đầy say đắm. Ở đây nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như nỗi “nhớ người yêu” một nỗi nhớ cháy bỏng, nồng nàn, thiết tha, mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là khi về cách xa thì nỗi nhớ càng cồn cào da diết khôn nguôi. Dường như nỗi nhớ của người cách mạng từ thiên nhiên và con người Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm của cán bộ đối với nhân dân. Không phải là nỗi nhớ của ý thức , của nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái tim yêu thương chân thành và da diết. Câu thơ “Trăng lên đầu núi…” như được phân ra làm 2 nửa thời gian: vế đầu là hình ảnh gợi tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi chiều lao động trên nương rẫy. Thời gian như chảy ngược – nỗi nhớ như đi từ gần tới xa, thăm thẳm trong quá khứ. Tình yêu gắn liền với lao động; lao động nảy sinh ra tình yêu . Câu thơ cùng lúc thể hiện hai không gian của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa nghĩa vụ và tình cảm. Vì vậy cảnh và người phút chốc trở lại đầy vơi trong tâm trí của người ra đi.

Theo mỗi điệp khúc “nhớ” là một nét đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vị trong những không gian và thời gian khác nhau. Một vầng trăng thấp thoáng nơi đầu núi, một ánh nắng chiếu lấp ló lương, những bản làng bồng bềnh trong khói, trong sương, những rừng nứa bụi tre những núi đèo, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê để vơi trong nỗi nhớ. Bằng phép liệt kê làm cho những kỷ niệm khơi ra tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này, đến hình ảnh khác. Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre” chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ cái thở ban đầu ,lúc mới quen nhau. Đây cũng là những danh từ chung mô tả đặc điểm của không gian Việt Bắc với bao nét đẹp mơ mộng. Còn “Ngòi Thia , sông Đáy , suối Lê … là những địa danh lịch sử, đã từng khắc ghi trong lịch sử Cách mạng – nơi đã diễn ra nhiều chiến công oanh liệt. Sương khói hư vô mờ mịt mơ hồ. Nhưng đó là động thái chuẩn bị trong một thứ ánh sáng đặc biệt hiện ra “sớm khuya bếp lửa người thương đi về”. sự đối lập giữa cái lạnh và cấm cái trừu tượng là cụ thể đã làm nổi bật tình người ấm áp. Tấm lòng của đồng bào với cách mạng đáng quý đến nhường nào, vì thế mà thương, mà nhớ, thương nhớ đến xót xa. Nhịp thơ mượt mà êm ái như người đọc vào những kỉ niệm bâng khuâng. đó là những hình ảnh thân thuộc gần gũi của thiên nhiên và con người mang đậm chất Việt Bắc. Ở đây thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm “những mây cùng mù” nữa mà ấm áp, tươi vui. Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực, vừa mộng, vừa đơn sơ của thị vị, gợi rõ nét riêng biệt độc đáo khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những con người sống gắn bó máu thịt với Việt Bắc để có cái nhìn toàn diện của nỗi nhớ da diết da và cảm nhận sâu sắc đến thế. Như Chế Lan Viên, một người con cũng từng gắn bó với Việt Bắc đã viết:

Trên phông nền thiên nhiên Việt Bắc bảo làn khói sương hình ảnh con người thoáng qua nhưng đem lại hơi ấm và màu sắc rực rỡ cho cảnh thiên nhiên. Trong dòng ký ức đứt, nối, mở tỏ, những dòng thơ sau hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên thật thân thương mộc mạc gắn liền với kỷ niệm của một thời không thể nào quên. Việt Bắc để trở thành người yêu vì thương của tác giả và của những con người kháng chiến.

Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc đi nhiều khó nhưng đầy ắp nghĩa tình. Trong ký ức của người kháng chiến những tháng ngày khó khăn thiếu thốn trở nên thật ấm áp biết bao. Dù gian nan, dù khổ cực, mình với ta vẫn gắn bó đồng hành bên nhau.

Việt Bắc ru hồn người đọc bằng giai điệu ngọt ngào, tha thiết của nỗi nhớ, sự cân đối nhịp nhàng trong từng lời thơ, bên cạnh những hình ảnh gần gũi mà gợi cảm. Sự kết hợp hài hòa ấy đã đánh thức dậy trong lòng người ý thức trách nhiệm với dân tộc, tình quân dân keo sơn gắn bó, đạo lý uống nước nhớ nguồn, tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất, ân nghĩa, thủy chung của con người cách mạng. Việt Bắc với tiếng thơ tha thiết, điệu thơ êm ái là khúc ca trữ tình nồng nàn sôi nổi bậc nhất trong thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại.

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc – Mẫu 4

Những năm tháng hào hùng của dân tộc đã được thơ ca văn học Cách mạng ghi lại trong những trang văn, trang thơ. Trong đó phải kể đến tác phẩm “Việt Bắc” của Tố Hữu là khúc ân tình thủy chung của đồng bào kháng chiến và chiến sĩ. Nổi bật là khổ bốn – đoạn thơ là nỗi nhớ thiên nhiên và con người Việt Bắc trong kháng chiến:

Năm 1954, kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà bình được lặp lại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung ương Đảng, cán bộ và bộ đội rời Việt Bắc để trở về thủ đô Hà Nội. Trong không gian đầy nhớ thương lưu luyến giữa nhân dân Việt Bắc và những chiến sĩ cách mạng nhà thơ Tố Hữu đã viết bài thơ “Việt Bắc”. Đoạn trích đã miêu tả sâu sắc cuộc chia ly giữa cán bộ và người dân Việt Bắc gợi lại cuộc kháng chiến anh hùng mà đầy nghĩa tình. Đó là một cuộc chia tay đầy bịn rịn lưu luyến, đầy nghĩa tình sâu đậm.

Đáp lại tình cảm của người ra đi, người ở lại cũng của người cán bộ về xuôi bày tỏ nỗi lòng của mình với người Việt Bắc. Dù xa nhưng người chiến sĩ vẫn luôn một dạ một lòng thủy chung hướng về Việt Bắc:

“Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

Cuộc chia tay đầy lưu luyến, bịn rịn giữa người ở lại và người ra đi: “Mình đi, mình lại nhớ mình”. Việc sử dụng hình ảnh so sánh: “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” là một hình ảnh đặc sắc. “Nguồn” là nơi bắt đầu của một dòng sông, con suối vì thế lúc nào cũng tràn đầy, ở đây được so sánh với “nghĩa tình” đã cho thấy tình cảm lúc nào cũng dạt dào và đong đầy chất chứa ko bao giờ cạn hao đi. Tiếp đến, “nhớ gì như nhớ người yêu” tác giả sử dụng nghệ thuật so sánh rất độc đáo so sánh nỗi nhớ của người chiến sĩ với nỗi nhớ “người yêu” một tình cảm cháy bỏng rạo rực luôn dâng trào.

Người chiến sĩ nhớ về cuộc sống sinh hoạt của người dân Việt Bắc nấu bữa tối, khói từ các ống bếp bốc ra nghi ngút. Rồi đêm tới lại bập bùng bên bếp lửa cháy rực cùng nhau quây quần kể chuyện, múa hát. Họ nhớ về:

Nhớ những thứ thân thuộc khi ngày ngày gắn bó, với những địa điểm hết sức nổi tiếng như: “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê”, “suối Lê” ở đây chính là suối Lê Nin. Cuối cùng, đoạn thơ khép lại trở về với cách xưng hô mình và ta:

“Đắng cay ngọt bùi” là những khó khăn gian khổ vất vả. “Mình đây, ta đó đắng cay ngọt bùi…” ở đây muốn chỉ những người chiến sĩ và người dân Việt Bắc đã cùng nhau trải qua những khó khăn, gian khổ, họ đã cùng trải qua. Với việc sử dụng sáng tạo hài đại từ “mình – ta” với lối đối đáp giao duyên trong dân ca. Bài thơ Việt Bắc thể hiện tính dân tộc đậm đà. Cả bài thơ khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. Thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trọn niềm tự hào dân tộc.Các câu thơ đậm chất dân tộc, trong việc sử dụng hình thức đối đáp với cặp đại từ nhân xưng “mình – ta”, ngôn ngữ, hình ảnh thơ giản dị, nhịp thơ uyển chuyển, sử dụng thể thơ dân tộc – thể thơ lục bát… Bài thơ cho chúng ta thấy nghĩa tình của người dân Việt trong những năm tháng khó khăn, gian khổ của cuộc chiến tranh, giành độc lập, tự do cho dân tộc.

Đoạn thơ đã khép lại nhưng lại để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng về hình ảnh thiên nhiên Việt Bắc với những hình ảnh giản dị, đó là khói của bếp lửa, là hình ảnh suối đèo, bờ tre thân thuộc… Tất cả đã để lại một hoài niệm khó quên trong lòng người ra đi về cái nghĩa, cái tình của đồng bào thân thương cùng nhau chia sẻ miếng cơm, manh áo trong những giây phút ngặt nghèo, từ đó cũng cho thấy sự đoàn kết của hậu phương và tiền tuyến trong giai đoạn lịch sử thăng trầm bấy giờ. Nó cũng là lời nhắc nhở cho thế hệ hôm nay đang được sống trong hòa bình cần trân trọng lịch sử, trân trọng những thành quả của cha ông để lại, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc – Mẫu 5

Tố Hữu từng nói: “Thơ là tiếng nói hồn nhiên của tâm hồn con người”. Ở đó, những nỗi niềm sâu kín của trái tim mỗi thi nhân được thể hiện một cách độc đáo. Bởi vậy, ta có dịp bắt gặp nỗi nhớ niềm thương da diết của nhà thơ Tố Hữu gửi gắm tới quê hương cách mạng trong khổ bốn trích trong bài thơ “Việt Bắc”.

Năm 1954, khi hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết mở ra trang sử mới của cách mạng dân tộc. Các cơ quan trung ương Đảng dời quê hương cách mạng Việt Bắc – nơi cưu mang, che chở họ trong những năm kháng chiến để trở về xuôi tiếp quản thủ đô. Bao lưu luyến, ân tình của cán bộ Đảng và đồng bào miền núi là chất xúc tác chắp đôi cánh cảm hứng nơi ngòi bút Tố Hữu tạo nên tác phẩm “Việt Bắc” được coi là đỉnh cao thơ ca kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ. Giữa những năm tháng kháng chiến khói lửa, văn học trở thành vũ khí động viên tinh thần yêu nước của nhân dân, nhưng tiếng thơ Tố Hữu không giáo điều, đoạn thơ thấm đẫm nỗi nhớ người ở lại được gợi nhắc bởi người ra đi.

Thể thơ lục bát mềm mại, giọng điệu thiết tha, tâm tình cùng với kết cấu đối đáp quen thuộc thường đi về trong những câu hát giao duyên trong buổi tình tự, hẹn hò, trai gái mở hội lòng gợi bầu không gian đậm chất trữ tình. Cụm từ “mình – ta” cũng trở đi trở lại trong những câu hát huê tình nay Tố Hữu sử dựng nói tình cảm chính trị, chuyện riêng tư bàn việc chung đã mềm hóa nội dung chính trị. Ân nghĩa sâu nặng của đồng bào miền núi – cưu mang, che chở các chiến sĩ suốt mười lăm năm, được khẳng định như lời thề son sắt, mãi vẹn nguyên “đinh ninh, nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”. “Mình” với “ta” tuy hai mà một kết hợp cách nói bình dị, sáng tạo nhắc nhớ truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của ông cha làm câu thơ giàu nhạc tính.

Điệp từ “nhớ” gợi nỗi nhớ thương khôn nguôi đậm tô tình đồng chí, nghĩa đồng bào tạo nhịp chảy xuyên suốt dòng kỉ niệm ngọt ngào, ấm áp. Hình ảnh so sánh “như nhớ người yêu” đậm hơi thở dân gian:

Nhà thơ mượn tình yêu đôi lứa thân thiết, đằm thắm để nói tình đồng đội với nhân dân một cách tự nhiên, thấm thía. Không gian người cất bước nhớ tới đều thấp thoáng hình bóng của người ở lại, bao trùm đồi núi, lưng nương, khoảng thời gian khi trăng lên, lúc chiều xuống. Nơi đây đất đã hóa tâm hồn người đi xuôi. Hình ảnh luyến lưu người ra đi còn là bản làng, sương, khói – cuộc sống êm đềm, mộng thơ của chốn núi non xa xôi:

Khắp mọi nơi đều để lại sợi nhớ, sợi thương hình dáng “người thương đi về”. Trong không gian ấm cúng của ánh lửa, giữa thời gian “sớm khuya” gợi sự tảo tần, bền bỉ, sự bền chí, vững lòng trong suốt cuộc chiến đấu. “Người thương” vừa có thể là chiến sĩ, đồng bào cùng lý tưởng, có thể là người mẹ, cô em gái… hình tượng gợi nhiều chiều liên tưởng, mà không khô khan. Tác giả còn liệt kê một số địa danh cụ thể “Ngòi Thia, sông Ðáy, suối Lê” – đó là những không gian vĩnh hằng, vơi đầy con nước như nỗi lòng đong đầy của người đi và kẻ ở những ngày tháng đậm nghĩa tình cùng trải qua bao đắng cay, ngọt bùi. Chính gian khổ đã trở thành chất lửa thử vàng để tình nghĩa quân dân cá nước thêm gắn bó, bền chặt, vượt lên mọi rào cản khoảng cách và thời gian để “ta” đi ta nhớ, “mình” ở mình chẳng thể quên. Dường như cái vơi đầy của sông suối cũng chính là cái vơi đầy của lòng người, của man mác một nỗi nhớ thương bắt nhịp trong tâm trí của người ra đi. Bên cạnh những địa danh Cách mạng, nhà thơ còn tiếp tục kể đến những kỷ niệm đẹp đẽ, đáng nhớ của đời sống thuở còn kháng chiến. Những hình ảnh thân thương, cảm động của tình sẻ chia nồng ấm “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, “chia củ sắn bùi” đã gợi ra cái nghĩa tình đậm sâu, sự đồng cam cộng khổ, cùng sẻ chia gian khó của người Việt Bắc trong những tháng ngày kháng chiến gian khổ, nhọc nhằn. Cùng với đó, hình ảnh “lớp học i tờ”, “tiếng ca vang đầu núi”, “tiếng chày đêm nện cối” lại đưa dẫn tâm trí người đọc đến một miền ký ức khác của đời sống kháng chiến, đó là những phút giây thanh bình, vui tươi tỏa ra từ niềm hạnh phúc, lạc quan Cách mạng.

Nhà thơ dụng công khắc họa nỗi nhớ niềm thương của cán bộ miền xuôi tới đồng bào miền núi, với sự kết hợp màu sắc cổ điển và hiện đại, vừa gần gũi, vừa đượm tính dân tộc, mới mẻ. Âm hưởng thiết tha, giọng điệu tâm tình, ngọt ngào khiến tư tưởng chính trị không khô cứng mà dễ rung động vào lòng người. Bài thơ “Việt Bắc” chính là dấu son ghi lại nghĩa tình cách mạng thủy chung giữa cuộc kháng chiến trường kỳ gian khó mà huy hoàng của dân tộc.

Phân tích đoạn 4 Việt Bắc – Mẫu 6

Chế Lan Viên đã từng khẳng định: “Thơ cần có hình cho người ta thấy, có ý cho người ta nghĩ và cần có tình để rung động trái tim”. Và tác phẩm của Tố Hữu đã làm rung động lòng người bởi những hình ảnh thân thương gần gũi và triết lý về con người và cuộc đời. Bởi tình người thắm thiết đậm đà không phôi pha theo thời gian. Bài thơ “Việt Bắc” là một trong những minh chứng tiêu biểu cho khả năng lay động trái tim con người tiêu biểu cho tài năng thơ phong cách thơ Tố Hữu – một thi sĩ được mệnh danh là lá cờ đầu thơ ca cách mạng Việt Nam. Và đoạn thơ thứ tư là một trong những khúc ca của nỗi nhớ đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ bạn đọc.

Đoạn thơ tiếp nối những lời nhắn nhủ, tâm tình của người ở lại trao cho người ra đi:

Dường như thấu tỏ nỗi băn khoăn do dự của người ở lại, người ra đi đã khẳng định chắc chắn sắt son câu trả lời vang lên như một lời thề. Cặp đại từ “ta – mình” hòa quyện quấn quýt với tấm lòng thủy chung gắn bó. “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh” nghĩa là không bao giờ thay đổi, không bao giờ vơi cạn như nước nơi thượng nguồn. Tiếp đến, câu thơ “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu” vừa là hình ảnh so sánh đậm màu sắc của văn học dân gian, giản dị mà sâu sắc, lại vừa như lời đồng vọng, nguyện thề trước lời nhắn nhủ thiết tha của người ở “…nhìn sông nhớ nguồn”. Cuộc chia tay của người dân Việt Bắc và con người kháng chiến cũng đầy bịn rịn, chất chứa nhiều nhớ thương nhưng không muốn đã đâm lễ khi những cuộc chia tay trong văn học cổ:

Có lẽ đây là cuộc chia tay của những con người vừa làm nên chiến thắng, đó là cuộc chia tay trong yêu thương và cả trong niềm vui niềm tin tưởng của ngày mai gặp lại.

Theo sau lời khẳng định thủy chung sắt son, nỗi nhớ cảnh là người Việt Bắc của về trong tâm trí người ra đi.

Theo Chế Lan Viên, thơ Tố Hữu nói các vấn đề bằng trái tim của một người đầy say đắm. Ở đây nỗi nhớ Việt Bắc được so sánh như nỗi “nhớ người yêu” một nỗi nhớ cháy bỏng, nồng nàn, thiết tha, mãnh liệt. Tình yêu là nỗi nhớ, nhất là khi về cách xa thì nỗi nhớ càng cồn cào da diết khôn nguôi. Dường như nỗi nhớ của người cách mạng từ thiên nhiên và con người Việt Bắc có lẽ cũng không kém phần tha thiết như thế. Tố Hữu đã lấy thước đo giá trị của nỗi nhớ trong tình yêu để cắt nghĩa, lý giải cho tình cảm của cán bộ đối với nhân dân. Không phải là nỗi nhớ của ý thức, của nghĩa vụ mà nhớ bằng cả trái tim yêu thương chân thành và da diết. Câu thơ “Trăng lên đầu núi…” như được phân ra làm hai nửa thời gian: vế đầu là hình ảnh gợi tả đêm trăng hò hẹn của tình yêu; vế sau là hình ảnh gợi không gian của buổi chiều lao động trên nương rẫy. Thời gian như chảy ngược – nỗi nhớ như đi từ gần tới xa, thăm thẳm trong quá khứ. Tình yêu gắn liền với lao động; lao động nảy sinh ra tình yêu. Câu thơ cùng lúc thể hiện hai không gian của tình yêu và lao động, tạo nên sự hài hoà giữa nghĩa vụ và tình cảm. Vì vậy cảnh và người phút chốc trở lại đầy vơi trong tâm trí của người ra đi.

Theo mỗi điệp khúc “nhớ” là một nét đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vị trong những không gian và thời gian khác nhau. Một vầng trăng thấp thoáng nơi đầu núi, một ánh nắng chiếu lấp ló lương, những bản làng bồng bềnh trong khói, trong sương, những rừng nứa bụi tre những núi đèo, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê để vơi trong nỗi nhớ. Bằng phép liệt kê làm cho những kỷ niệm khơi ra tầng tầng lớp lớp, hết hình ảnh này, đến hình ảnh khác. Những hình ảnh “rừng nứa bờ tre” chính là nơi hẹn hò, gặp gỡ cái thở ban đầu, lúc mới quen nhau. Đây cũng là những danh từ chung mô tả đặc điểm của không gian Việt Bắc với bao nét đẹp mơ mộng. Còn “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê” là những địa danh lịch sử, đã từng khắc ghi trong lịch sử Cách mạng – nơi đã diễn ra nhiều chiến công oanh liệt. Sương khói hư vô mờ mịt mơ hồ. Nhưng đó là động thái chuẩn bị trong một thứ ánh sáng đặc biệt hiện ra “sớm khuya bếp lửa người thương đi về”. Sự đối lập giữa cái lạnh và cấm cái trừu tượng là cụ thể đã làm nổi bật tình người ấm áp. Tấm lòng của đồng bào với cách mạng đáng quý đến nhường nào, vì thế mà thương, mà nhớ, thương nhớ đến xót xa. Nhịp thơ mượt mà êm ái như người đọc vào những kỉ niệm bâng khuâng. đó là những hình ảnh thân thuộc gần gũi của thiên nhiên và con người mang đậm chất Việt Bắc. Ở đây thiên nhiên Việt Bắc không còn ảm đạm “những mây cùng mù” nữa mà ấm áp, tươi vui. Thiên nhiên, cuộc sống hiện lên vừa thực, vừa mộng, vừa đơn sơ của thị vị, gợi rõ nét riêng biệt độc đáo khác hẳn với bao miền quê đất Việt. Chỉ có những con người sống gắn bó máu thịt với Việt Bắc để có cái nhìn toàn diện của nỗi nhớ da diết da và cảm nhận sâu sắc đến thế. Như Chế Lan Viên, một người con cũng từng gắn bó với Việt Bắc đã viết:

Trên phông nền thiên nhiên, Việt Bắc bảo làn khói sương hình ảnh con người thoáng qua nhưng đem lại hơi ấm và màu sắc rực rỡ cho cảnh thiên nhiên. Trong dòng ký ức đứt, nối, mở tỏ, những dòng thơ sau hình ảnh con người Việt Bắc hiện lên thật thân thương mộc mạc gắn liền với kỷ niệm của một thời không thể nào quên. Việt Bắc để trở thành người yêu vì thương của tác giả và của những con người kháng chiến.

Cuộc sống của đồng bào Việt Bắc đi nhiều khó nhưng đầy ắp nghĩa tình. Trong ký ức của người kháng chiến những tháng ngày khó khăn thiếu thốn trở nên thật ấm áp biết bao. Dù gian nan, dù khổ cực, mình với ta vẫn gắn bó đồng hành bên nhau.

Việt Bắc ru hồn người đọc bằng giai điệu ngọt ngào, tha thiết của nỗi nhớ, sự cân đối nhịp nhàng trong từng lời thơ, bên cạnh những hình ảnh gần gũi mà gợi cảm. Sự kết hợp hài hòa ấy đã đánh thức dậy trong lòng người ý thức trách nhiệm với dân tộc, tình quân dân keo sơn gắn bó, đạo lý uống nước nhớ nguồn, tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất, ân nghĩa, thủy chung của con người cách mạng. Việt Bắc với tiếng thơ tha thiết, điệu thơ êm ái là khúc ca trữ tình nồng nàn sôi nổi bậc nhất trong thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại.

Phân tích Việt Bắc đoạn 4 – Mẫu 7

Nỗi nhớ xưa nay luôn là một niềm cảm hứng, một hình ảnh nghệ thuật khơi gợi niềm thi hứng trong tâm hồn biết bao nhà thơ. Đó là một nỗi nhớ “bổi hổi bồi hồi” trong ca dao xưa, một nỗi nhớ thiết tha trong “Tương tư chiều” của Xuân Diệu hay nỗi nhớ “chín nhớ mười mong” trong thơ Nguyễn Bính. Đi vào thơ ca, nỗi nhớ mang rất nhiều sắc thái. Và ta cũng bắt gặp trong thơ Tố Hữu, trong bài thơ “Việt Bắc” một nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy rất riêng, rất đậm sâu, một nỗi nhớ đã được nhà thơ gửi gắm qua từng hình ảnh, ý thơ trong đoạn thơ thứ tư của bài.

Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của thơ ca hiện đại Việt Nam, đặc biệt là thơ ca Cách mạng dân tộc. Là một nhà thơ tâm huyết với vốn tài sản văn chương phong phú, đồ sộ, Tố Hữu đã từng phát biểu về quan niệm của mình rằng: “Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng, xác định thật rõ tầm nhìn, cách nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với người nghệ sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân… Tóm lại, viết thơ phải xứng đáng là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng”. Đọc “Việt Bắc” ông viết năm 1954, ta cảm thấu rõ tư tưởng đó của nhà thơ. Trong tác phẩm, khổ thơ thứ tư nhà thơ thể hiện nỗi nhớ nhung da diết của người ra đi đối với mảnh đất, con người Tây Bắc với biết bao kỷ niệm được coi là một đoạn thơ đặc sắc, được nhiều người quan tâm.

Những câu thơ trong đoạn bốn là lời nhớ thương tha thiết của người ở lại:

Những ý thơ tiếp theo nhà thơ Tố Hữu khéo léo chỉ ra địa chỉ của nỗi nhớ. Nỗi nhớ dung da diết, dạt dào ấy trở về với một không gian, khoảnh khắc thời gian thơ mộng, trữ tình. Tựa hồ đó là những đêm trăng lên đầu núi, những chiều lắng đọng lưng nương, phảng phất một không gian hò hẹn của lứa đôi. Trong tâm trí người ra đi, hình ảnh Việt Bắc nghĩa tình ấy không chỉ hiện lên trong sương khói mịt mờ mà còn trong những sớm khuya thấp thoáng bóng dáng người thương bên bếp lửa. Bếp lửa, hình ảnh ấy đã gợi ra khung cảnh của một mái ấm nơi những đồng bào Việt Bắc hiện lên trong bóng dáng của những người thân thương nồng đượm nghĩa tình. “Ngòi Thia, Sông Đáy, Suối Lê”, đó là một loạt các địa danh gắn với dấu ấn Cách mạng. Dường như cái vơi đầy của sông suối cũng chính là cái vơi đầy của lòng người, của man mác một nỗi nhớ thương bắt nhịp trong tâm trí của người ra đi. Không chỉ có những địa danh Cách mạng, nhà thơ còn tiếp tục kể đến những kỷ niệm đẹp đẽ, đáng nhớ của đời sống thuở còn kháng chiến. Những hình ảnh thân thương, cảm động của tình sẻ chia nồng ấm “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, “chia củ sắn bùi” đã gợi ra cái nghĩa tình đậm sâu, sự đồng cam cộng khổ, cùng sẻ chia gian khó của người Việt Bắc trong những tháng ngày kháng chiến gian khổ, nhọc nhằn. Cùng với đó, hình ảnh “lớp học i tờ”, “tiếng ca vang đầu núi”, “tiếng chày đêm nện cối” lại đưa dẫn tâm trí người đọc đến một miền ký ức khác của đời sống kháng chiến, đó là những phút giây thanh bình, vui tươi tỏa ra từ niềm hạnh phúc, lạc quan Cách mạng.

Đoạn thơ chính là những cung bậc cảm xúc khác nhau của đời sống kháng chiến biết bao kỷ niệm đã đọng lại trong tâm trí, ký ức người ra đi. Đó là những dấu khắc ghi không bao giờ phai, những dáng hình thân thuộc sẽ nhớ mãi và trân trọng mãi. Cảm nhận những cảm xúc, những hình ảnh của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ, ta hiểu đó cũng chính là những nghĩ suy, nỗi niềm tâm trạng của chính nhà thơ Tố Hữu và chia sẻ những cảm xúc đó với nhà thơ.

Phân tích Việt Bắc đoạn 4 – Mẫu 8

“Việt Bắc” là khúc hùng ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng. Bài thơ đã khắc họa được tình cảm của đồng bào Việt Bắc dành cho cán bộ cách mạng. Trong bài thơ, nổi bật lên là khổ thơ thứ bốn đã khắc họa nỗi nhớ về con người và thiên nhiên và con người Việt Bắc trong những năm kháng chiến:

Advertisement

Để đáp lại ân tình của người ở lại, lời của người ra đi cũng tha thiết không kém. “Ta” và “mình” dường như hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, không tách rời. Người ra đi khẳng định với người ở lại rằng “lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”. Hai từ “đinh ninh” dường như đã ghim chặt vào lòng người đọc một tấm lòng son sắt và thủy chung trước sau như một. Đó là tình cảm hết sức thiêng liêng và cao cả. Dù hôm nay có chia xa để trở về miền xuôi, thì lòng của người ra đi vẫn không thay đổi. Với việc sử dụng hình ảnh so sánh “nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu” cho thấy tình cảm lúc nào cũng dạt dào và đong đầy.

Kế tiếp, nỗi nhớ của cán bộ chiến sĩ dành cho đồng bào Việt Bắc được so sánh với nỗi nhớ người yêu. Một hình ảnh so sánh thật độc đáo bởi có nỗi nhớ nào mãnh liệt và tha thiết bằng nỗi nhớ của những người yêu nhau. Ca dao xưa từng có câu:

Hay:

Thế mới thấy được tình cảm sâu sắc của chiến sĩ cách mạng và đồng bào Việt Bắc. Tuy họ chưa chia xa mà đã nhớ về nhau với tấm lòng sâu sắc đến chừng nào. Câu thơ tiếp theo được chia ra làm hai vế: “trăng lên đầu núi” – gợi thời gian hò hẹn của đôi lứa yêu nha và “nắng chiều lưng nương” – gợi không gian lao động của người Việt Bắc. Câu thơ như gợi ra cuộc sống lao động chứa chan tình cảm yêu thương, gắn bó.

Người ra đi tiếp tục nhớ về những kỉ niệm trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cùng với đồng bào Việt Bắc. Nỗi nhớ về bản làng ẩn hiện trong sương khói mờ ảo. Hình ảnh “Sớm khuya bếp lửa người thương đi về” gợi về một miền Việt Bắc đầy ấm áp, thân thương của “bếp lửa”. Điệp ngữ “nhớ từng” cho chúng ta những cảm nhận như nhà thơ đang lật giở từng trang ký ức, nhà thơ đã liệt kê những địa danh “sông Đáy, suối Lê” cùng với hai tiếng “vơi đầy” khép lại đoạn thơ gợi ra những kỉ niệm chứa chan yêu thương: Bao nhiêu nước, bao kỷ niệm đầy vơi, bao nghĩa tình ấm áp ngọt ngào. Cuối cùng là với cụm từ “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người ra đi dành cho những người ở lại hay của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm.

Với khổ thơ này, Tố Hữu đã thể hiện được nỗi nhớ của người ra đi dành cho người ở lại trước những kỉ niệm trong đời sống kháng chiến sẽ mãi lưu lại trong tâm trí của cán bộ chiến sĩ.

Phân tích Việt Bắc đoạn 4 – Mẫu 9

Đến với bài thơ “Việt Bắc” của nhà thơ Tố Hữu, người đọc sẽ cảm nhận được tình cảm quân dân giữa đồng bào Việt Bắc và những chiến sĩ cách mạng. Và điều đó được thể hiện vô cùng sâu sắc qua khổ thơ thứ bốn của bài thơ.

Tiếng lòng của người ở lại khiến người ra đi không khỏi bồn chồn, xúc động. Tất cả điều đó đã khơi dậy rất nhiều kỉ niệm khó quên trong tâm trí của người chiến sĩ. Nỗi niềm ấy khiến cho cuộc chia ly trở nên bịn rịn, lưu luyến hơn bao giờ hết. Nó như một sợi dây níu kéo người ở và người đi. Mười lăm năm dài đằng đẵng đã gắn kết người với người lại với nhau. Họ đã cùng nhau chung sống, cùng nhau trải qua biết bao khó khăn, chia sẻ cho nhau từng miếng cơm, manh áo để đến giờ phút chia ly cảm xúc trào ra thành câu chữ:

Lúc này, “ta với mình” – “mình với ta” như hòa quyện làm một, cộng hưởng cùng nhau thành một khối thống nhất, không tách rời. Hai chữ “đinh ninh” như một sự khẳng định chắc chắn về tình cảm mà người ra đi dành cho những người ở lại. Đó là một thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý không gì có thể thay thế được dù có trải qua bao nhiêu thời gian, hay xa cách về không gian. Nếu nguồn với nước dào dạt bao nhiêu thì ta với mình nghĩa tình sâu nặng bấy nhiêu: “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Phép tu từ điệp cấu trúc kết hợp với điệp ngữ đặt ở đầu câu: nhớ gì, nhớ từng… khẳng định người ra đi không quên bất cứ một hình ảnh nào ở Việt Bắc, ở thiên nhiên Việt Bắc và ở con người nơi đây.

Nỗi nhớ ấy được khéo léo so sánh với nỗi nhớ người yêu:

Việc so sánh như vậy giúp người ra đi bộc lộ một tình cảm mãnh liệt, sâu sắc dành cho đồng bào Việt Bắc. Tình quân dân bỗng trở nên thắm thiết như tình yêu lứa đôi.

Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã chỉ ra những đối tượng của nỗi nhớ:

Nhà thơ Tố Hữu khéo léo chỉ ra những đối tượng của nỗi nhớ. Nỗi nhớ về một miền không gian, hay thời gian nào đó đầy thơ mộng, trữ tình. Đó là những “đêm trăng đầu núi”, những “nắng chiều lắng lưng nương” gợi ra không gian, thời gian hẹn hò của đôi lứa yêu nhau. Trong tâm trí người ra đi, hình ảnh Việt Bắc nghĩa tình ấy không chỉ hiện lên trong sương khói mịt mờ mà còn trong những sớm khuya thấp thoáng bóng dáng người thương bên bếp lửa. “Bếp lửa” – hình ảnh gợi ra khung cảnh của một mái nhà ấm cúng nơi những đồng bào Việt Bắc hiện lên trong bóng dáng của những người thân thương nồng đượm nghĩa tình. Họ dường như đã trở thành gia đình, người thân đối với “người ra đi”. Kế tiếp là các địa danh: “Ngòi Thia, Sông Đáy, Suối Lê” – các địa danh gắn với dấu ấn Cách mạng. Dường như cái vơi đầy của sông suối cũng chính là cái vơi đầy của lòng người, của man mác một nỗi nhớ thương bắt nhịp trong tâm trí của người ra đi. Sau đó người ra đi như muốn khẳng định lại một lần nữa: “Ta đi ta nhớ…” là lời tâm sự chân thành và là lời nhắn nhủ tha thiết của người đi dành cho những người ở lại, của người cách mạng dành cho mảnh đất Việt Bắc anh hùng, cụm từ “Mình đây ta đó…” kết hợp với “đắng cay ngọt bùi” càng nhấn mạnh hơn những ân tình sâu thẳm.

Trong cuộc sống đó, người ra đi và người ở lại đã “chia sẻ ngọt bùi” – biết bao cay đắng, ngọt ngào đã cùng trải qua. Với một loạt những hình ảnh gợi ra sự sẻ chia nồng ấm của tình cảm quân dân mà như tình cảm gia đình: “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui đắp cùng”, “chia củ sắn bùi”. Họ đã cùng nhau đồng cam cộng khổ, cùng sẻ chia gian khó, cùng giúp đỡ nhau trong những năm tháng kháng chiến gian khổ, nhọc nhằn.

Tóm lại, đọc khổ thơ thứ tư của bài thơ Việt Bắc, người đọc đã thấy được một nỗi nhớ sâu sắc của người ra đi dành cho người ở lại trước cuộc chia ly đầy lưu luyến này.

Phân tích khổ 4 bài thơ Việt Bắc – Mẫu 10

Trong suốt đường đời hay đường thơ, nhà thơ Tố Hữu luôn mang đến cho độc giả những tác phẩm mang đậm chất chính trị và trữ tình. Đến với đoạn trích ‘Việt Bắc”, bạn đọc có thể cảm nhận được những tình cảm mà người miền xuôi dành cho người ở lại trong ngày bịn rịn chia tay. Nhắc nhớ những tình cảm chân thành ấy, người đi đã có những dòng hồi tưởng nhớ về cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc qua khổ thơ trên.

Con người và thiên nhiên Việt Bắc dù trong lao động hay trong chiến đấu cũng luôn có sự gắn bó hòa quyện với nhau. Khổ thơ trên đã lột tả được vẻ đẹp của bức tranh tứ bình Việt Bắc, trong đó, thiên nhiên và con người có mối quan hệ gắn bó, không tách rời. Bức tranh thiên nhiên ấy đã được mở ra từ nỗi nhớ

Nỗi nhớ của nhà thơ đã được tái hiện một cách chân thực và gần gũi nhất. Cảnh và người luôn có sự hòa quyện, gắn bó với nhau. Cho nên, nỗi nhớ da diết mà tác giả gửi gắm, vừa là nỗi nhớ thiên nhiên, lại là nỗi nhớ những con người Việt Bắc bình dị mà thân thiện.

Cảnh thiên nhiên Việt Bắc được tái hiện trong nỗi nhớ của nhà thơ là sự mở đầu của bức tranh tứ bình. Bức tranh thiên nhiên có màu sắc, đường nét, âm thanh, gợi ra cả một miền thương nhớ. Cảnh vật vô cùng đơn sơ, nhưng lại gợi sự gần gũi, thân thuộc. Thường theo quy luật: xuân, hạ, thu, đông, mùa xuân đánh nhẽ ra phải là sự mở đầu cho nỗi nhớ. Nhưng nhà thơ Tố Hữu lại lựa chọn mở đầu nỗi nhớ bằng hình ảnh đại diện cho mùa đông

Hồi ức của tác giả trở về trong giờ phút chia tay. Làm sao ta quên được hoàn cảnh lịch sử mùa đông năm 1954, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân kháng chiến. Bức tranh mùa đông của Việt Bắc được miêu tả với màu xanh bạt ngàn của núi rừng, màu đỏ của hoa chuối như những ngọn đuốc sáng rực cả một nền xanh. Vậy là, mùa đông ở Việt Bắc không còn mang vẻ lạnh lẽo, mà luôn ấm áp, tràn đầy sự sống. Hình ảnh con người Việt Bắc cần cù, hăng say trong lao động cũng được tác giả thể hiện một cách rất tinh tế. Hình ảnh đồng bào Việt Bắc lúc đi rừng làm rẫy, hình ảnh thơ tạo sức gợi nên ý nghĩa hình ảnh con người lao động làm chủ thiên nhiên.

Bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc đã được gợi nhớ theo dòng hồi tường:

Không gian lại được mở rộng ra. Hình ảnh những đồi hoa mơ nở trắng rừng. Màu trắng mang sự tinh khôi, khởi sắc của mọi sự sống đã trải rộng, bạt ngàn trên các núi đồi. Cảnh thiên nhiên gợi ra cho người đọc cảm giác thơ mộng, bâng khuâng. Khoảng thời gian mùa xuân chính là khoảng thời gian vận động trong suốt 4 mùa, gợi sự sinh sôi, nảy nở. Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên vô cùng thơ mộng, trữ tình. Gắn với thiên nhiên, con người Việt Bắc cũng hiện lên rất đẹp. Từ “chuốt” gợi sự tỉ mỉ, cần mẫn, chịu khó của người dân nơi đây khi bắt tay vào công việc.

Mùa xuân lại đi qua, nhường chỗ cho sự xuất hiện của mùa hạ:

Bức tranh gợi cho người đọc có sự cảm nhận cả về thị giác lẫn thính giác. Âm thanh quen thuộc gợi sự xuất hiện của mùa hè là tiếng “ve”. Đồng điệu với nó là màu vàng bạt ngàn của rừng phách, từ “đổ” gợi sự dàn đều, rộng khắp của màu sắc. Bức tranh ấy hiện lên mang vẻ đẹp của sự tráng lệ, lung linh trong sắc vàng của nắng hè. Cảnh thiên nhiên vừa đẹp, mà lại vừa mang vẻ đẹp lãng mạn bởi có sự xuất hiện của bóng dáng người thiếu nữ. Đọc những vần thơ, ta có thể cảm nhận được nét dịu dàng, mềm mại, uyển chuyển của cô gái Việt Bắc. Cô gái đi hái măng giữ rừng tre, nứa trong khúc nhạc rừng, “một mình” nhưng chẳng cô đơn. Thiên nhiên và con người đã hòa quyện và tô điểm cho nhau.

Cảnh rừng đêm trăng thu huyền diệu, thơ mộng, trữ tình chính là câu kết cho đoạn thơ:

Không gian được mở ra tràn ngập ánh trăng thanh bình, ánh trăng ấy đang soi sáng khắp núi rừng chiến khu. Dưới ánh sáng của vầng trăng hiền dịu, có đâu đây ngân nga tiếng hát “ân tình” làm xao xuyến lòng người. Tiếng hát là tiếng lòng, bộc lộ tâm hồn thủy chung, tình nghĩa của con người Việt Bắc.

Có thể nói, đây là một trong những khổ thơ nổi bật nhất trong đoạn trích. Vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc được miêu tả chân thực và rõ nét, có sự hòa quyện tuyệt vời. Con người- thiên nhiên luôn hòa quyện, gắn bó mà không có sự tách rời. Mỗi câu thơ là một phiên cảnh với những nét màu tài hoa.

Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Khổ 2 Bài Thơ Từ Ấy (2 Dàn Ý + 11 Mẫu) Từ Ấy Của Tố Hữu

Dàn ý khổ 2 bài thơ Từ ấy

Dàn ý số 1

I. Mở bài:

– Giới thiệu khổ 2 bài thơ Từ ấy – Tố Hữu

Ví dụ:

Tố Hữu là một trong những nhà thơ cách mạng nổi tiếng nhất, ông có những tác phẩm thơ sống mãi như tập Việt Bắc (1947-1954), tập Gió lộng (1955-1961), tập Ra trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977),…. Một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông là bài Từ ấy. Từ ấy là bài thơ mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, bài thơ đồng thời là một chân lý sống của tác giả trong cuộc sống. Khổ 2 của bài thơ thể hiện sự nhận thức của tác giả về chân lý sống, lẽ sống mới qua lí tưởng đảng. Chúng ta cùng đi tìm hiểu khổ 2 của bài thơ Từ ấy để hiểu rõ hơn những vấn đề trong bài.

II. Thân bài:

1. Hai câu thơ đầu: Tôi buộc lòng tôi với mọi người / Để tình trang trải với trăm nơi

Khẳng định quan niệm mới về lẽ sống của tác giả

Thể hiện sự gắn bó giữa cái tôi và cái ta, giữa cái chung và cái riêng

Ý thức tự nguyện của tác giả đóng góp cho lý tưởng đảng

Niềm tin vào lý tưởng đảng

2. Hai câu sau: “Để hồn tôi với bao hồn khổ, Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Bộc lộ tình yêu thương con người

Nhà thơ trường thành trong thời kỳ chống Mỹ

Khẳng định mối quan hệ sâu sắc giữa con người với văn học

III. Kết bài:

– Nêu cảm nhận của em về bài thơ Từ ấy

Ví dụ:

Qua khổ 2 bài thơ Từ ấy chúng ta có thể nhận thấy tình yêu, niềm tin đối với lý lẽ sống của tác giả đối với đất nước và con người

Dàn ý số 2

I. Mở bài:

Giới thiệu khái quát về bài thơ Từ ấy và tác giả Tố Hữu

Dẫn dắt giới thiệu đoạn thơ thứ 2 của bài:

Nghĩ về Tố Hữu, Chế Lan Viên từng chia sẻ: “Tố Hữu là một nhà thơ có lý tưởng. Lý tưởng ấy khiến cho nhà thơ luôn nghe được bên tai tiếng gọi của Tổ quốc, tự mình biến thành tiếng gọi ấy để thức tỉnh lòng người”. Khi đọc và cảm nhận bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu, ta lại càng thấm thía hơn lời chia sẻ của nhà thơ Chế Lan Viên. Khổ thơ thứ hai trong bài thơ cũng là một đoạn thơ đặc sắc, giàu ý nghĩa.

II. Thân bài:

1. Nêu ngắn gọn vị trí đoạn thơ:

Đây là đoạn thơ thứ hai trong bài thơ “Từ ấy” .

Sau khổ thơ thứ nhất diễn tả những xúc cảm mãnh liệt, dâng trào mạnh mẽ vì được là một phần trong hàng ngũ những người sống và phấn đấu vì lý tưởng cao đẹp, nhân vật trữ tình đã tiếp tục chia sẻ niềm vui sướng, hạnh phúc của mình với “trăm người”, “trăm nơi”.

2. Phân tích đoạn thơ:

Những từ “buộc”, “trang trải”, “gần gũi” đã thể hiện sự tự nguyện gắn bó, san sẻ của nhân vật trữ tình. “Buộc” là gắn kết bền chặt, không bao giờ có thể rạn nứt hay chia xa. “Trang trải” là chia sẻ, “gần gũi” là gắn bó, giao cảm.

Nhà thơ không những mở rộng thế giới tâm hồn mình, chủ động kết nối tâm hồn mình với thế giới của những người lao động cần lao mà còn thấy mình đang ở giữa mọi người trong một vòng tay lớn.

Ở mỗi dòng thơ, vòng tay ấy lại được nới rộng trong sự liên kết, bền chặt.

Đại từ “tôi” được tác giả đặt trong mối liên hệ với “mọi người”, với “trăm nơi” và với “bao hồn khổ”. Trong tình hữu ái giai cấp, nhân vật trữ tình không thấy mình riêng lẻ, cô đơn mà trở thành một phần của khối đời lao khổ.

Cái tôi cá nhân ấy một phần như muốn hòa chung vào với quần chúng nhân dân, một phần như tự ý thức được trách nhiệm của mình đối với quần chúng những người lao động ấy.

Dẫu biết rằng trong nhân dân còn biết bao nhiêu “hồn khổ”, song người chiến sĩ Cách mạng ấy vẫn không nhụt chí, nản lòng mà vững tin vào Đảng, vào bản thân có thể đóng góp làm “mạnh khối đời”.

Đằng sau niềm tin, ý chí, tinh thần của người chiến sĩ Cách mạng ấy ta thấy bóng dáng của người nghệ sĩ, người chiến sĩ cần lao Tố Hữu luôn nhiệt thành góp công, góp sức vào hành trình giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, đem lại cuộc sống hòa bình, ấm no cho nhân dân.

Tố Hữu đã gắn kết đời sống mình với đời sống nhân dân một cách rất tự nhiên.

III. Kết bài:

Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ:

Thơ Tố Hữu luôn sống mãi trong tim mỗi người dân Việt Nam. Niềm cảm hứng, tinh thần, ý chí quyết tâm góp công sức cá nhân vào công cuộc xây dựng, đắp bồi cái chung ông gửi vào từng trang thơ luôn lan tỏa mạnh mẽ đến từng thế hệ người Việt Nam. “Từ ấy” là một bài thơ tiêu biểu cho điều đó.

Phân tích khổ 2 Từ ấy – Mẫu 1

Nghĩ về Tố Hữu, Chế Lan Viên từng chia sẻ: “Tố Hữu là một nhà thơ có lý tưởng. Lý tưởng ấy khiến cho nhà thơ luôn nghe được bên tai tiếng gọi của Tổ quốc, tự mình biến thành tiếng gọi ấy để thức tỉnh lòng người”. Khi đọc và cảm nhận bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu, ta lại càng thấm thía hơn lời chia sẻ của nhà thơ Chế Lan Viên. Khổ thơ thứ hai trong bài thơ cũng là một đoạn thơ đặc sắc, giàu ý nghĩa.

Đây là đoạn thơ thứ hai trong bài thơ “Từ ấy”. Sau khổ thơ thứ nhất diễn tả những xúc cảm mãnh liệt, dâng trào mạnh mẽ vì được là một phần trong hàng ngũ những người sống và phấn đấu vì lý tưởng cao đẹp, nhân vật trữ tình đã tiếp tục chia sẻ niềm vui sướng, hạnh phúc của mình với “trăm người”, “trăm nơi”.

Nếu như các nhà thơ lãng mạn cùng thời chưa có một nhân sinh quan sống đúng, họ sống chán nản hoặc tách biệt với nhân dân. Chẳng hạn như Xuân Diệu viết:

Hay như Chế Lan Viên thì nói:

Thì Tố Hữu lại có một nhận thức mới mẻ đúng đắn đó là:

Buộc là một cách nói ngoa dụ nhưng nhằm nhấn mạnh sự gắn bó đoàn kết với mọi người với nhân dân. Và Tố Hữu xác định gắn bó đoàn kết chưa đủ mà phải trang trải tình cảm, chia sẽ yêu thương với trăm nơi với mọi nhà. Hai chữ “buộc” và “trang trải” tình cảm với mọi người với trăm nơi đã thể hiện cái nhận thức khá toàn diện về một quan niệm sống mới, tức là một nhân sinh quan mới.

Sau nhận thức buộc và trang trải tình cảm nhà thơ còn thể hiện một nhận thức mới cụ thể hơn, đó là buộc và trang trải tình cảm với bao hồn khổ là với những con người lao khổ, để không ngoài mục đích là cho “mạnh khối đời” cho mạnh đội ngũ chiến đấu. Như vậy quan niệm về gắn bó và chia sẻ tình cảm của Tố Hữu có địa chỉ cụ thể và có mục đích cụ thể.

Khổ thơ thứ hai nhà thơ đã phản ánh kết quả của lý tưởng Đảng được soi chiếu vào tâm hồn nhà thơ ở khổ thơ thứ nhất. Đó là sự hình thành một nhân sinh quan mới, đó là quan niệm sống vì mọi người vì cách mạng.

Thơ Tố Hữu luôn sống mãi trong tim mỗi người dân Việt Nam. Niềm cảm hứng, tinh thần, ý chí quyết tâm góp công sức cá nhân vào công cuộc xây dựng, đắp bồi cái chung ông gửi vào từng trang thơ luôn lan tỏa mạnh mẽ đến từng thế hệ người Việt Nam. “Từ ấy” là một bài thơ tiêu biểu cho điều đó.

Phân tích Từ ấy khổ 2 – Mẫu 2

Những năm 30 của thế kỉ XX, khi những nhà thơ lãng mạn đang quẩn quanh với cảm giác cô đơn, sự tù túng, sự nhỏ bé cạn hẹp của cái tôi cá nhân mà chưa có cách vượt thoát thì Tố Hữu, một học trò trường Quốc học như đã tiếp nhận được không khí thời đại, sớm“băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. May mắn cho người con xứ Huế khao khát tìm kiếm lẽ sống ấy, “anh Lưu, anh Diểu dạy con đi,” chỉ cho con đường tương lai, cũng là khai sinh một con đường thơ cho người chiến sĩ Cộng sản trẻ tuổi. Sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt, đánh dấu một mốc son chói lọi trong đời cách mạng, đời thơ Tố Hữu, Từ ấy là bài thơ thể hiện rõ nét hình tượng tác giả người chiến sĩ cộng sản khi bắt gặp lý tưởng cộng sản và những chuyển biến, thay đổi trong nhận thức và tình cảm của người thanh niên cách mạng ấy. Điều này thể hiện rất rõ qua khổ thơ thứ 2 Từ ấy.

Như một sự tự nhiên, yêu nước, bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lênin, người thanh niên trí thức sau phút giây bừng ngộ về lẽ sống, hạnh phúc vì như được hồi sinh trong tâm hồn, là thức nhận về hành động của mình:

Cả khổ thơ là một ý thức tự nguyện mới mẻ của người thanh niên xuất thân từ gia đình thuộc tầng lớp trung lưu. Đó không hẳn chỉ là lí trí bởi người đọc nhận thấy sự chân thành trong cách nói. Giọng thơ sôi nổi trong các điệp từ đầu câu, trong sự tiếp nối của dòng ý thức, trong cách bộc lộ trực tiếp, tạo nên sự hồn nhiên thành thực của người thanh niên say mê lý tưởng. Dưới ánh sáng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa nhà thơ thấy tâm hồn mình gắn bó với nhân dân lao khổ. Các động từ-vị ngữ như buộc; Trang trải”; “Gần gũi”… Diễn tả tình bạn gắn bó thiết tha của người chiến sĩ cách mạng với quần chúng cần lao. Các từ ngữ Mọi người; Trăm nơi; Bao hồn khổ… Chỉ số đông nhân dân cần lao mà nhà thơ hướng tới để xây dựng”Khối đời” khối liên minh Công-nông ngày thêm mạnh, thêm gần gũi, chặt chẽ.

Ba chữ “tôi” xuất hiện trong khổ thơ 3 thể hiện một tình cảm chân thành, tiếng nói trái tim của người cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân luôn luôn đối lập với chủ nghĩa Cộng sản, cái tôi nhỏ bé hoàn toàn đối lập với mọi người. Đó là những biểu hiện cụ thể của lối sống giai cấp tư sản và tiểu tư sản trước cách mạng. Khi thực sự được giác ngộ lý tưởng cách mạng của giai cấp vô sản.

Tố Hữu biểu hiện và khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó giữa cái tôi riêng và cái ta chung: “Tôi buộc lòng tôi với mọi người”, Sự gắn bó đó hoàn toàn có tính tự nguyện vượt qua giới hạn của cái tôi để chan hòa với mọi người. Đó là biểu hiện tình thương với những người nghèo khổ. Hai tiếng “hồn khổ” giúp người đọc liên tưởng tới quần chúng lao khổ.

Giác ngộ lý tưởng cộng sản ở Tố Hữu nghĩa là giác ngộ lập trường giai cấp, từ bỏ cái tôi cá nhân của giai cấp tiểu tư sản để hòa nhập với khối đời chung của nhân dân lao khổ. Dù sao quan niệm mới mẻ của Tố Hữu đã chứng tỏ nhà thơ đã thoát khỏi cái tôi cô đơn bế tắc, gắn bó với giai cấp cần lao, tìm thấy niềm vui và sức mạnh ngay trong cuộc đời. Đặc biệt, Tố Hữu khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa thơ nói riêng và văn học nói chung với cuộc sống. Nhất là cuộc sống của nhân dân lao khổ.

Sống cùng thời đại nhà thơ có nhiều thanh niên chán nản đã quay lưng lại với cuộc đời để thu mình trong cái tôi cô đơn. Như Chế Lan Viên:

Lẽ sống của người chiến sĩ cộng sản, của một thi sĩ lớn luôn hướng về phía đất nước nhân dân và thấm thía sức mạnh của nhân dân với đất nước như mối liên hệ bền chặt giữa nghệ sĩ với cuộc đời, nghệ thuật với cuộc sống. Đó cũng là lẽ sống của biết bao chiến sĩ cùng thời, Xuân Diệu đã từng tâm sự:

Dẫu còn những nét hồn nhiên của cái nhìn về lý tưởng cách mạng, về lẽ sống, về cách mạng, dẫu còn những nhận thức đơn giản về những người lao khổ song trong thời điểm những năm 30 của thế kỉ trước, khi biết bao người bế tắc trong cảm giác lạc loài, thiếu quê hương hay quẩn quanh trong cái tôi cô đơn, nhỏ bé. Thì Tố Hữu vẫn chứng mình cho mọi người thấy những nét đẹp, những chân lí sáng lời của lí tưởng cách mạng đã giúp chàng thanh niên may mắn thấy được cuộc sống mới, cuộc đời mới trong niềm hạnh phúc của tuổi trẻ

Phân tích Từ ấy khổ 2 – Mẫu 3

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông hoạt động cách mạng rất sớm, năm 16 tuổi gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản, năm 18 tuổi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản. Đây là thời điểm có ý nghĩa quyết định cả cuộc đời cách mạng và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu. Từ ấy là một trong những bài thơ hay nhất được sáng tác vào giai đoạn đầu tác giả tham gia cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui của người chiến sĩ say mê lí tưởng, yêu nước, yêu cuộc đời, nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, cho nhân dân. Có thể coi bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu nói chung. Đây là quan điểm, là nhận thức sâu sắc của nhà thơ về mối quan hệ mật thiết giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao dưới ánh sáng chói lọi của Đảng Cộng sản. Điều đó được thể hiện rõ nhất ở khổ thơ thứ 2.

Khổ thơ thứ 2 là hệ quả của sự giác ngộ chân lí, là lời tâm niệm được nói lên như một lẽ sống, một quyết tâm, một lời hứa thiêng liêng. Đó là thái độ tự nguyện hiến dâng cho cách mạng, tự nguyện gắn bó với quần chúng lao khổ:

Nếu ở khổ thơ trước với biện pháp tu từ ẩn dụ (nắng hạ, mặt trời chân lí, vườn hoa lá) với lời thơ bay bổng, lãng mạn thì ở khổ thơ này tác giả sử dụng ngôn ngữ giản dị mộc mạc, âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng. Đó là lời bộc bạch trực tiếp ước vọng chân thành của nhà thơ; là tâm niệm của “cái tôi trữ tình cách mạng”. Tôi buộc lòng tôi với mọi người là hành động hoàn toàn tự nguyện của nhà thơ đối với giai cấp cần lao. Nhà thơ muốn tình cảm của mình được trang trải với trăm nơi, trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ với những trái tim của lớp người cùng khổ để tạo nên một khối đời vững chắc, trở thành sức mạnh to lớn phá tan chế độ thực dân phong kiến, xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn.

Trong quan niệm về lẽ sống của giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao “cái tôi cá nhân”. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống là sự gắn bó hài hoà giữa “cái tôi cá nhân” và “cái ta tập thể”. Động từ buộc thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của “cái tôi cá nhân” để sống chan hoà với mọi người. Từ trang trải thể hiện tâm hồn nhà thơ trải rộng ra với cuộc đời, đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của mỗi con người.

Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Trong mối liên hệ với mọi người, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Khối đời là ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi “cái tôi” chan hòa trong “cái ta”, khi cá nhân hòa mình vào tập thể có cùng lí tưởng thì sức mạnh sẽ nhân lên gấp bội. Tố Hữu đã đặt mình vào giữa dòng đời, vào môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ. Ở đấy, nhà thơ đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đoạn thơ, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của đông đảo quần chúng nhân dân.

Khổ 2 Từ ấy tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn cách mạng trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của Tố Hữu. “Cái tôi trữ tình” lắng đọng trong từng ý thơ, từng hình ảnh, lúc bay bổng, lúc lắng đọng, lúc là lời bộc bạch trực tiếp, chân thành những ước vọng, tâm tư khi tìm thấy lí tưởng. Từ ấy là tiếng hát yêu thương, tin tưởng, là tiếng lòng tha thiết của một thanh niên bắt đầu giác ngộ lí tưởng, tự nguyện dấn thân vào con đường cách mạng đầy chông gai, gian khổ, hi sinh của toàn dân tộc. Vượt thời gian, sau hơn nửa thế kỉ ra đời, Từ ấy vẫn tươi xanh chất trữ tình cách mạng. Bài thơ đã tạo được sự đồng cảm, mến mộ của nhiều thế hệ yêu thích thơ Tố Hữu.

Phân tích Từ ấy khổ 2 – Mẫu 4

Tố Hữu là nhà thơ nổi tiếng và trưởng thành theo cách mạng. Thơ của Tố Hữu là sự pha trộn hài hòa giữa chất trữ tính và chính trị. Ông cho ra đời rất nhiều tác phẩm thơ sống mãi và nổi tiếng như Việt Bắc, Gió Lộng, Ra Trận, Máu và Hoa… Một trong những tác phẩm nổi tiếng trong tập thơ của Tố Hữu phải kể đến Từ Ấy. Từ Ấy là tác phẩm mở đầu con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu. Bài thơ cũng là chân lý sống của tác giả thông qua lý tưởng cách mạng. Đặc biệt ở hai khổ thơ đầu của bài thơ thể hiện rõ những vấn đề trong bài.

Mọi người đều có những giây phút trọng đại của cuộc đời và có những cảm xúc riêng hạnh phúc khôn tả. Trong tình yêu, hạnh phúc là khi yêu và được yêu, trong tình cảm gia đình, hạnh phúc là khi có mẹ có cha ở bên… Có thể nói, hạnh phúc với mỗi người là khác nhau nhưng đều chung một cảm giác, đó là tuyệt vời, là nắng ấm dịu dàng. Và với Tố Hữu, thì hạnh phúc tuyệt vời lúc này đây chính là gặp được lý tưởng cách mạng, khiến cho tâm hồn của tác giả như nở hoa, hạnh phúc không thể thốt thành lời.

“Từ ấy” là một khoảng thời gian không xác định nhưng nó cũng có nghĩa là rất lâu rồi, từ khoảnh khắc ấy, khoảnh khắc nhận ra chân lí của cuộc đời mình. Đó là khoảnh khắc tác giả thấy được ánh sáng cách mạng, thấy được con đường cứu nước đúng đắn và ông tin theo nó. Mặt trời ở đây chính là mặt trời chân lý, ánh sáng cách mạng.

Nếu trái đất tồn tại được vì có ánh sáng của mặt trời soi sáng, khiến cho vạn vật đâm chồi nảy lộc, sự sống hình thành. Thì ánh sáng cách mạng cũng chính là mặt trời rọi chiếu vào trái tim tác giả, khiến cho trái tim, khối óc của người chiến sĩ như bừng sáng, xóa tan đi mọi u tối và tìm được cho mình con đường đi đúng đắn. Vì vậy, tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng lúc này đây mới rộn ràng tiếng chim, đậm hương thơm và là một vườn hoa lá. Tâm hồn hay chính xác là niềm vui, niềm vui khôn xiết. Ánh sáng cách mạng rọi chiếu khiến cho trái tim người cộng sản rạo rực, hạnh phúc khôn tả không khác gì tình yêu đôi lứa và có lẽ còn cao hơn cả tình yêu. Đó là tình yêu lí tưởng, tình yêu cách mạng dành cho dân tộc, cho đất nước.

Khi bạn đang bế tắc trước cuộc đời, con đường đi tăm tối không biết nên đi hướng nào cho đúng, bạn gặp được chân lí cuộc đời, gặp được ánh sáng dẫn bạn đi đúng hướng thì còn gì tuyệt hơn. Và người chiến sĩ cách mạng cũng vậy.

Sau những giây phút sung sướng nhận ra lý tưởng cuộc đời và cần phải đi, người cộng sản phải xác định một tâm thế, một hành động thật xứng đáng. Đó chính là trách nhiệm đối với cuộc đời, những kiếp người khốn khổ.

Tác giả sử dụng động từ “buộc” cho thấy sự chủ động, ràng buộc và xóa đi cái tôi cá nhân, thay vào đó là cái tôi hướng đến những kiếp người. Sự hẹp hòi ích kỉ không có mặt ở đây. Trên con đường cách mạng mà người chiến sĩ đã lựa chọn chỉ có sự hi sinh, đồng lòng, đoàn kết và thấu hiểu. Tác giả tự cho mình là con của mọi nhà, là anh của vạn kiếp phôi pha, là anh của vạn đầu em nhỏ… Tác giả đã “buộc” nghĩa là dứt khoát, mạnh mẽ, lí trí sáng suốt cuộc đời mình với người dân. Dù đó là ai, thì người chiến sĩ cách mạng cũng sẽ hết lòng phụng sự. Đây chính là tinh thần tự nguyện, tình nhân ái làm cho mỗi người hòa vào cuộc đời và trở thành con người theo nghĩa của nó.

Khi con người đoàn kết, sống vì nhau sẽ tạo nên một khối thống nhất. Có lẽ vì vậy mà dân tộc Việt Nam bé nhỏ đã có thể “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” vì tình tương thân tương ái, hòa quyện vào nhau. Và có lẽ, chính những con người cộng sản ấy đã là sợi dây kết nối vô hình để gần gũi hơn với những mảnh đời bất hạnh, để hiểu và dẫn dắt họ đứng lên, đấu tranh tìm hạnh phúc.

Từ ấy là bản đàn dạo vui đầu tiên của người cộng sản khi gặp ánh sáng cách mạng. Trong hai khổ thơ đâu cũng chính là niềm vui, là trách nhiệm cao cả mà người chiến sĩ cảm nhận và thấy được. Tâm hồn bừng sáng cũng là lúc trái tim lí trí phải mạnh mẽ, dứt khoát và quyết tâm. Cho dù con đường đó chông gai khó khăn nhưng vẫn tiến về phía trước để thay đổi những cuộc đời bất hạnh.

Phân tích khổ 2 bài thơ Từ ấy – Mẫu 5

Tố Hữu là một nhà thơ lớn của cách mạng Việt Nam. Ông đã có những đóng góp không nhỏ cho nền thơ ca nước nhà. Thơ ông mang đậm khuynh hướng sử thi, trữ tình gắn với chính trị.

Bài thơ “Từ ấy” in trong tập thơ đầu tay của ông, là một trong những bài thơ xuất sắc của nhà thơ. Đặc biệt, hai khổ thơ đầu của bài thơ thể hiện niềm vui sướng, hạnh phúc tột cùng của Tố Hữu khi sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng, đồng thời cũng cho thấy những nhận thức về lẽ sống và trách nhiệm của bản thân nhà thơ:

Bài thơ mở đầu với những câu thơ viết theo lỗi tự sự, thể hiện niềm say sưa, hạnh phúc như bừng tỉnh tâm hồn khi nhà thơ nhận thấy lý tưởng của Đảng:

Nhà thơ kể lại một mốc lịch sử đáng nhớ của cuộc đời mình “từ ấy”. “Từ ấy” là từ khi người thanh niên tuổi mười tám, đôi mươi được giác ngộ lý tưởng cộng sản và đứng trong hàng ngũ của Đảng. Tác giả đã sử dụng thành công hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ”, mặt trời chân lý” để chỉ lý tưởng cộng sản, lý tưởng cách mạng. Bởi lẽ, “nắng hạ” là cái nắng rực rỡ còn “mặt trời” tròn trịa là cội nguồn của ánh sáng vĩnh hằng.

Đối với nhà thơ, điều đó cũng giống như tầm quan trọng của cách mạng, là nguồn sống đối với nhà thơ, với dân tộc Việt Nam đang chịu áp bức, sống trong cảnh nước mất nhà tan. Động từ “bừng” gợi một ánh nắng mùa hạ chói chang, đột nhiên sáng bừng lên, cũng giống như tâm hồn nhà thơ bất chợt được khai sáng, được nảy nở sau bao chuỗi ngày “bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước”.

Chính “mặt trời chân lý” của cách mạng đã mang ánh nắng mới ấm áp, rực rỡ “chói” qua trái tim của Tố Hữu. Mang đến ánh sáng với trái tim của một tuổi trẻ đầy nhiệt huyết để khát khao mãnh liệt được cống hiến. Nhà thơ đã sử dụng động từ mạnh “chói” ở giữa câu thơ để thể hiện sự tác động mạnh mẽ của lý tưởng cộng sản đến với cuộc đời mình.

Nhà thơ đã tiếp tục diễn tả niềm hạnh phúc vô bờ của mình từ bước ngoặt cuộc đời ấy bằng giọng thơ đầy háo hức cùng những hình ảnh giàu sức gợi hình, gợi cảm:

Nhà thơ đã dùng biện pháp tu từ so sánh, ví tâm hồn mình như “một vườn hoa lá”. Từ khi có ánh sáng của mặt trời chân lý cách mạng chiếu soi, tâm hồn nhà thơ đầy niềm khát khao, vui vẻ ngập tràn giống như một vườn hoa “rất đậm hương” và “rộn tiếng chim”. Hình ảnh sống động “đậm hương”, “rộn tiếng chim” càng khẳng định đó là một vườn hoa lá rực rỡ đầy sức sống mãnh liệt, tỏa hương thơm ngào ngạt, rộn ràng vươn lên đón nắng mới. Câu thơ cho thấy một niềm náo nức, say mê và hạnh phúc ngập tràn như tiếng hoan ca trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng, người thi sĩ.

Niềm vui sướng, say mê của nhà thơ Tố Hữu khi giác ngộ lý tưởng cách mạng cũng giống bao hồn thơ khác nảy nở tâm hồn sau bao tháng ngày tăm tối.

Từ khi được giác ngộ lý tưởng cách mạng, với sự nhiệt huyết chân thành, người thanh niên tuổi trẻ Tố Hữu đã bắt đầu có những nhận thức thay đổi trong lẽ sống cao đẹp, trách nhiệm cuộc đời mình:

Nhờ chân lý cách mạng soi sáng, nhà thơ có những nhận thức mới trong gắn bó với mọi người. Động từ “buộc” thể hiện sự ràng buộc của bản thân nhà thơ đối với môi trường rộng lớn mọi giai cấp, bỏ đi cái tôi cá nhân để hòa vào cái ta rộng lớn. Cụm từ “trang trải” và “trăm nơi” nói lên tình yêu thương giai cấp trong trái tim nhà thơ với mong muốn đồng cảm sâu sắc với người lao động nghèo khó.

Sự đồng cảm của nhà thơ với bao “hồn khổ” là tiếng lòng thiết tha yêu thương, gần gũi với những người bị bóc lột trong xã hội, đó là em nhỏ, những bà mẹ nghèo, những người không nhà cửa…Câu thơ cuối là niềm ước ao, khát khao cháy bỏng của nhà thơ không phân biệt giai cấp, gần gũi, bao bọc nhau để thêm “mạnh khối đời”. Điều đó thể hiện mong ước đoàn kết mọi giai cấp để tạo nên một khối thống nhất với sức mạnh cực kỳ to lớn.

Điệp từ “để” được điệp lại hai lần cùng nhịp thơ nhịp nhàng, giọng thơ hân hoan, háo hức càng thể hiện được sự thay đổi mạnh mẽ, sôi nổi trong lý tưởng sống của nhà thơ. Gấp trang sách lại mà hình ảnh một vườn hoa lá rộn tiếng chim cùng mặt trời chân lý chói chang, rực rỡ vẫn in sâu trong trái tim người đọc.

Bài thơ Từ ấy nói chung cũng như đoạn thơ nói riêng đã thể hiện một cách sâu sắc và thành công niềm say mê, vui sướng và hạnh phúc vô bờ của nhà thơ khi được giác ngộ lý tưởng cách mạng. Dù đất nước đã hòa bình thống nhất nhưng bài thơ mãi là tiếng ca reo vui của người thanh niên trẻ giàu nhiệt huyết và khát khao cống hiến tuổi trẻ cho đất nước, để lại những dư âm sâu lắng trong trái tim mọi độc giả.

Phân tích khổ 2 bài Từ ấy – Mẫu 6

“Từ Ấy” là bài thơ rất hay, đặc biệt bởi đây là bài thơ đánh dấu cuộc đời hoạt động cách mạng của nhà thơ. Tháng 7 năm 1938, Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. Ghi nhận kỉ niệm đáng nhớ ấy với cảm xúc, suy tư sâu sắc Tố Hữu viết nên “Từ Ấy”. Bài thơ nằm trong phần “Máu Lửa” của tập “Từ Ấy”. Bài thơ là lời tâm nguyện của người thanh niên yêu nước giác ngộ lí tưởng cộng sản. Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng cho tới chân thực trong khổ thơ cuối bài.

Trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại đầy chi tiết những biến chuyển trong nhận thức, tình cảm của nhà thơ. Trở thành người chiến sĩ cộng sản, Tố Hữu thấy được sự đồng điệu, gắn bó và cả trách nhiệm của bản thân với vận mệnh của đất nước, với quần chúng lao khổ:

Động từ “buộc” không chỉ thể hiện ý thức gắn bó tự nguyện, quyết tâm kết nối mạnh mẽ của nhà thơ mà còn thể hiện mối quan hệ gắn bó, khăng khít giữa cái “tôi” cá nhân và cái “ta” chung của cộng đồng. Có thể thấy nhà thơ Tố Hữu đã mở lòng mình ra để yêu thương, gắn bó với mọi người xung quanh, đây cũng chính cơ sở tạo nên tình đoàn kết dân tộc và sức mạnh của cả tập thể trong cuộc đấu tranh chung.

Từ ý thức, nguyện vọng gắn bó với quần chúng cần lao, nhà thơ Tố Hữu đã hướng tới những điều lớn lao, cao đẹp hơn “Để tình trang trải với trăm nơi”. Nhà thơ muốn gắn kết tâm hồn mình với tất cả mọi người, với “trăm nơi” để tạo nên mối đồng cảm sâu xa, chân thành, tự nguyện với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.

Hai câu thơ sau đã làm sâu sắc thêm mong muốn gắn kết của nhà thơ với quần chúng quần lao “bao hồn khổ”. Tình yêu thương, sự quan tâm giữa con người với con người không chỉ làm cho mối quan hệ thêm gắn kết “gần gũi” mà còn tạo ra sức mạnh đoàn kết mạnh mẽ “thêm mạnh khối đời”. Sức mạnh của tinh thần đoàn kết ấy chúng ta cũng từng bắt gặp trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm:

Như vậy, trong khổ thơ thứ hai, nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện quan niệm sống mới mẻ về sự gắn bó giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người.

Bằng ngôn từ giản dị mà giàu ý nghĩa biểu tượng và giọng thơ sôi nổi, nồng nàn nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện được niềm vui lớn, lẽ sống lớn khi bắt gặp ánh sáng cộng sản. Bài thơ như một lời tuyên ngôn đầy mạnh mẽ, quyết tâm của nhà thơ về lí tưởng sống, lí tưởng chiến đấu của người chiến sĩ cộng sản, qua đó cũng khẳng định quan điểm nghệ thuật của nhà thơ: Văn chương phải phụng sự cho sự nghiệp cách mạng.

Phân tích khổ 2 bài thơ Từ ấy – Mẫu 7

Tố Hữu là một trong những nhà thơ cách mạng nổi tiếng nhất, ông có những tác phẩm thơ sống mãi như tập Việt Bắc (1947-1954), tập Gió lộng (1955-1961), tập Ra trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977),…. Một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông là bài Từ ấy. Từ ấy là bài thơ mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, bài thơ đồng thời là một chân lý sống của tác giả trong cuộc sống. Khổ 2 của bài thơ thể hiện sự nhận thức của tác giả về chân lý sống, lẽ sống mới của lí tưởng đảng. Chúng ta cùng đi tìm hiểu khổ 2 của bài thơ Từ ấy để hiểu rõ hơn những vấn đề trong bài.

Khi giác ngộ lý tưởng Tố hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người:

Động từ “buộc” thể hiện một ý thức tự nguyện và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người. “Buộc” còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Mọi người ở đây là những người lao khổ, những con người cùng chung giai cấp vô sản.

Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. “Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời” là tác giả nói đến tinh thần đoàn kết. “Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung một cảnh ngộ, cùng chung một lý tưởng, đoàn kết với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại quyền sống và quyền độc lập dân tộc.

Như vậy, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chính xác, giàu ẩn ý, nhà thơ đã gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh đoàn kết, câu thơ trên cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi cá nhân hòa vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội.

Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa cá nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lý tưởng của nhà thơ Tố Hữu.

Phân tích khổ 2 bài thơ Từ ấy – Mẫu 8

Tố Hữu được mệnh danh là nhà thơ của dân tộc. Thơ ca của ông có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống của nhân dân những năm Cách Mạng. Tập thơ “Từ ấy” mở đầu cho chặng đường thơ ca Cách mạng của ông. Bài thơ cùng tên sáng tác năm 1938 như khúc hát sôi nổi về nhiệt huyết, tình yêu niềm tin với Đảng và Cách mạng. Mở đầu bài thơ là những câu thơ diễn tả cảm xúc dạt dào của người thanh niên trẻ tuổi, thì những vẫn thơ tiếp vẫn là mạch cảm xúc đó tác giả nói lên tiếng nói tình cảm gắn kết khối đại đoàn kết của dân tộc trong ánh sáng Cách mạng Đảng.

Tố Hữu tự nguyện“ buộc” lòng mình với long mọi người. Dưới ánh sáng của Cách Mạng, tác giả như hòa mình vào với muôn triệu trái tim Việt Nam. Từ “buộc” thể hiện sự gắn bó chặt chẽ, đoàn kết. Tác giả nguyện cùng đứng trong đau khổ, cùng đói nghèo, cùng vui sướng cùng hạnh phúc với người dân Việt Nam. Ông không ngại khổng ngại khó.

Cũng từ chữ “buộc” ta như thấy được sự trách nhiệm của ông đối với dân tộc, đất nước. Trách nhiệm của một người dân Việt Nam là bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trách nhiệm của người chiến sĩ Cách mạng là yêu thương lấy đồng bào, bảo vệ nhân dân thoát khỏi chiến tranh, thoát khỏi đói nghèo.

Tác giả “để tình trang trải với muôn nơi”. Phải chăng cái tình của tác giả bao la rộng lớn có thể “trang trải” tới muôn nơi? Đúng thế, đó là tình yêu với muôn vàn người dân đất Việt. Tình yêu đó bao la, tình yêu đó rộng lớn. Tác giả cuốn tình yêu của mình được hòa cùng tính yêu của muôn người. Đó là tình yêu to lớn, tình yêu gắn bó.

Không chỉ “trang trải tới muôn nơi” mà Tố Hữu còn muốn “Để hồn tôi với bao hồn khổ”. “ Hồn khổ” đó là cách nói hình ảnh về những con người Việt Nam thời kì này bị chiến tranh làm cho đói nghèo, bị thực dân đàn áp, cuộc sống khó khăn, vất vả. Những con người đó sống trong những tháng ngày tăm tối của nô lệ, của đàn áp. Tác giả nguyện để mình sống cùng những đau khổ, sống cùng những khó khăn để san sẻ những nỗi khổ, nỗi đau của triệu người dân.

Điệp từ “để” đứng ở đầu câu nhấn mạnh tình cảm, sự vị tha của một con người không chỉ yêu Cách Mạng mà yêu cả những con người xung quanh. Đó là lí tưởng mới khi ánh sáng Đảng đã soi chiếu. Sống không chỉ vì ta mà còn vì mọi người.

Câu thơ cuối vang lên đầy cảm xúc:

“Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời”

“Khối đời” một cách nói trừu tượng về tình đoàn kết, sự gắn bó chặt chẽ của mọi người dân đất Việt Nam. Đó là những con người cùng chung cảnh ngộ khó khăn, cùng chung hoàn cảnh đau khổ. Đó cũng là cũng con người chung lý tưởng, chung chí hướng: sống vì đất nước, vì dân tộc, đấu tranh cho một hòa bình độc lập dân tộc. Tố Hữu muốn nhấn mạnh trong khó khăn gian khổ, con người cùng nhau gần gũi, cùng nhau sát cánh, cùng nhau đứng lên chiến đấu thể hiện tình đoàn kết, tình dân tộc thì mọi điều đều vượt qua dễ dàng.

Khổ thơ với cách sử dụng từ ngữ hình ảnh chính xác, hình ảnh, thơ mộng lãng mạn đã thể hiện rõ tư tưởng tình cảm, lý tưởng của tác giả. Khi cái tôi hòa vào cùng cái ta, khi cái riêng tư hòa cùng cái chung của cộng đồng thì lý tưởng ý chí được nhân lên, được củng cố thêm mạnh mẽ, vững chắc. Và ánh sáng của Đảng của Cách Mạng đã soi sáng cho lý tưởng, cho ý chí đó.

Phân tích khổ 2 bài thơ Từ ấy – Mẫu 9

Tố Hữu là một trong những cánh chim đầu đàn trong nền thơ ca, văn học Việt Nam. Cả cuộc đời sự nghiệp sáng tác của ông đều hướng tới tư tưởng yêu nước, tự hào dân tộc và lý tưởng cách mạng chiến đấu của nhân dân ta. Trong vô vàn những tập thơ tiêu biểu, chắc hẳn những người yêu thơ không thể quên được tập thơ đầu tay của ông mang tên “ Từ ấy”. Đặc biệt, qua hai khổ thơ đầu của bài thơ “ từ ấy”, tác giả đã gửi gắm, thể hiện trọn niềm vui của người thanh niên trẻ khi được giác ngộ với cách mạng.

Bài thơ được sáng tác vào năm 1938, trong giai đoạn Tố Hữu được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương. Đây được xem là một trong những dấu mốc quan trọng nhất cuộc đời nhà thơ, khi ông tìm được con đường chân lý sẽ đi trong những tháng năm tuổi trẻ. Luôn trong tâm thế khát vọng được chiến đấu, cống hiến cho sự nghiệp giải phóng nước nhà, tác giả đã viết nên bằng tất cả niềm say mê, hạnh phúc khi có đảng qua những câu thơ đầu tiên:

“Từ ấy” là khoảng thời gian từ khi tác giả được giác ngộ lý tưởng cộng sản, ông cảm thấy vô cùng vui sướng, hạnh phúc biết bao. Hình ảnh “ bừng nắng hạ” bừng lên biết bao cảm xúc vỡ òa của tác giả khi được trải qua những khoảnh khắc thiêng liêng ấy. Một luồng ánh sáng chói sáng, hòa mình cũng hình ảnh ẩn dụ “ mặt trời chân lí chói qua tim” cho lí tưởng cách mạng.

Tố Hữu đặc biệt sử dụng động từ “ bừng” và “ chói” đã gợi tả nên ánh sáng rực rỡ, mạnh mẽ từ khi Đảng mang lại cho cuộc đời ông. Trái tim ông như được tiếp thêm ngọn lửa rực cháy. Khi trái đất không thể tồn tại khi không có sự hiện diện của mặt trời, tựa như cuộc đời của nhà thơ sẽ chẳng thể nào có lối sáng, nhận được những điều tốt lành nếu như không có sự soi đường dẫn lối của cách mạng.

Advertisement

Tiếp nối mạch cảm xúc, bằng tâm hồn và bút pháp trữ tình lãng mạn, giàu sức tạo hình, Tố Hữu đã tiếp tục diễn tả nỗi niềm vui mừng vô hạn trong những phút giây đầu tiên được sánh vai trong hàng ngũ của Đảng:

Những cặp hình ảnh ẩn dụ như “vườn hoa lá” và “ rộn tiếng chim” đại diện cho một thế giới mới tràn đầy hương sắc và sức sống. Phía sâu trong tâm hồn của người con người trẻ tuổi là những mong muốn, khát vọng đang thi nhau “đâm chồi nảy nở” tựa như hoa lá mùa xuân. Nó là một hình ảnh so sánh trừu tượng nhưng tác giả vẫn khiến cho người đọc như cũng cảm nhận được vô cùng chân thực của chính nhà thơ.

Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mạng không chỉ mang đến ngọn nguồn sức sống mới mà còn mang đến những niềm đam mê cho tác giả. Rồi ngày mai đây, ta sẽ còn có nhiều cơ hội được trải lòng mình đón ánh nắng sớm mai, cùng hương thơm ngào ngạt trong gió thoảng và tiếng chim lảnh lót bên tai. Những cảnh sắc yên bình, hài hòa và đẹp tươi mà đất nước sẽ được đón chào nhờ có Đảng sẽ là động lực lớn lao cho tác giả phấn đấu.

Khi giác ngộ lý tưởng ấy, Tố Hữu đã khẳng định quan niệm về lẽ sống mới. Ta với Đảng tuy hai mà một, đã là một đảng viên, cần phải biết hòa chung cái tôi cá nhân và cái ta chung của tập thể:

Ngay từ khi ấy, nhà thơ đã tự nguyện “ buộc” lòng mình với mọi người, mọi người chính là cả nhân dân, những người dân máu đỏ da vàng luôn hướng về lá cờ đỏ sao vàng. “ Buộc” còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Từ những người nông dân cần cù lao động, đến những người cùng chung giai cấp, họ đều ở đây, cùng nhau chiến đấu vì đất nước. Tâm hồn nhà thơ đang được “ trang trải” khắp bốn bề tổ quốc, để góp chút sức mạnh vào khối đoàn kết của dân tộc.

“Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ, lý tưởng , gắn bó với nhau và cùng phấn đấu vì một lợi ích chung của toàn dân tộc. Toàn bộ khổ thơ trên, nhà thơ đã bộc bạch hết những nỗi lòng, tâm tư thương yêu mến mộ đồng bào. Tình yêu giữa người với người, tình thương khi đất nước bị chia cắt, giặc thù xâm hại sẽ thôi thúc những con người ấy đoàn kết, gắn bó nhau hơn. Khi ta có thể gạt bỏ cái tôi cá nhân, những mưu cầu cá thể để hướng đến mục đích chung của một dân tộc, thì “kẻ thù nào cũng bị tiêu diệt, khó khăn nào cũng có thể vượt qua”.

Chỉ qua những câu thơ ngắn ngủi nhưng hết mực chân thành, từ niềm vui, hân hoan của tác giả khi được bắt gặp ánh sáng chân lý của Đảng đã khiến cuộc đời Tố Hữu bừng sáng biết bao. Những hình ảnh ẩn dụ hết sức gần gũi và giàu ý nghĩa đã giúp người đọc cảm nhận được hết lòng quyết tâm, lời thề trung thành với nước với dân của nhà thơ.

Phân tích khổ 2 bài thơ Từ ấy – Mẫu 10

Tố Hữu là một trong những nhà thơ cách mạng nổi tiếng nhất, ông có những tác phẩm thơ sống mãi như tập Việt Bắc (1947-1954), tập Gió lộng (1955-1961), tập Ra trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977),…. Một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông là bài Từ ấy. Từ ấy là bài thơ mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thi ca của Tố Hữu, bài thơ đồng thời là một chân lí sống của tác giả trong cuộc sống. Khổ 2 của bài thơ thể hiện sự nhận thức của tác giả về chân lí sống, lẽ sống mới qua lí tưởng đảng. Chúng ta cùng đi tìm hiểu khổ 2 của bài thơ Từ ấy để hiểu rõ hơn những vấn đề trong bài.

Động từ “buộc” được sử dụng một cách rất “đắt” trong câu thơ này. Nó là sự tự nguyện, là thái độ mong muốn được gắn kết sẻ chia. Nhà thơ tự kết dính tấm lòng của mình với tất cả mọi người. Ông xem mọi người đều là người thân của mình, đều là đồng chí anh em cùng chung hoạn nạn sướng vui, để chính ông tự muốn ràng buộc bản thân mình với họ. Sự ràng buộc này không phải là một mối quan hệ cụ thể, nó chính là sợi dây ân tình ân nghĩa sâu nặng mà Tổ Hữu muốn gắn kết giữa muôn người. Ông muốn mọi người vui chung với niềm vui của ông, cùng chiêm nghiệm và giác ngộ lý tưởng cách mạng để con đường kháng chiến thêm những anh hùng. Tố Hữu đã đi từ cái “tôi” cá nhân đến cái “ta”chung ở tất cả mọi người. “Buộc” còn có nghĩa là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Thân làm nam nhi sinh ra giữa đất trời, trách nhiệm nặng nề và vinh hạnh luôn trên đôi vai người chiến sĩ, chính là nhiệm vụ giải phóng, bảo vệ tổ quốc. Mọi người ở đây là những người nông dân Việt Nam, những con người hiền lành khổ cực, những con người cùng chung giai cấp vô sản. Ta bỗng nhớ đến những câu thơ nói về chí làm trai:

Tố Hữu muốn ánh sáng cách mạng được lan tỏa khắp nơi nơi, chiếu soi cho những cuộc đời đau khổ, soi sáng cho những con đường còn mù mịt tăm tối, để cuối cùng, sức mạnh toàn dân tộc được gắn chặt, trỗi dậy và hành động thực sự. Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. Nhà thơ tìm về sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân tộc, cùng nhau nắm chặt tay chiến đấu để trả nợ mối thù non sông. Điều này xuất phát từ ý thức giác ngộ cách mạng của người chiến sĩ Tố Hữu lúc bấy giờ.

Có thể thấy rằng toàn bộ đoạn thơ là lời bộc bạch chân thành về tâm trạng của nhà thơ khi gặp ánh sáng của cuộc đời mình. Với lối viết giản dị chân thành, Tố Hữu giúp độc giả hiểu và cảm nhận được niềm vui sướng mãnh liệt đang trào dâng trong trái tim người lính anh hùng.

Phân tích khổ 2 bài thơ Từ ấy – Mẫu 11

Lý tưởng Cách mạng là ngọn đèn soi đường chỉ lối cho dân tộc ta, dẫn cả đất nước ta qua đêm trường đen tối. Và đối với người thanh niên trẻ Tố Hữu, lí tưởng ấy đã cho ông một nguồn sống mới, dạt dào, mạnh mẽ, chiếu rọi lên trái tim còn đang bơ vơ của ông. Và “Từ ấy” ra đời như một kết quả tất yếu, đánh dấu lại trang đời bước sang trưởng thành của người thanh niên Cách mạng, đồng thời nó còn là tiếng reo vui, hân hoan mà rộn rã Tố Hữu được lần đầu tiên đứng trong hàng ngũ của Đảng. Điều đó được thể hiện rất rõ qua khổ thơ thứ 2 bài Từ ấy.

Khổ thơ thứ 2 của bài thơ là biểu hiện những nhận thức, lẽ sống mới của cái tôi trữ tình. Nhà thơ nguyện dấn thân vào cuộc đời nhân dân, “cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu” với nhân dân. Đó là nhận thức, là giác ngộ, là lẽ sống lớn. Nhà thơ kết nối “những tù nhân khốn nạn của bần cùng”, kết nối “kiếp phôi pha” để rồi cuối cùng làm cho “mạnh khối đời” – khối đại đoàn kết dân tộc.

Giác ngộ lí tưởng, giác ngộ nhận thức, lẽ sống đối với người cộng sản, trước hết là giác ngộ về chỗ đứng. Nhà thơ chủ động, tự giác hòa “cái tôi” với “cái ta” chung của mọi người, tự nguyện đứng trong hàng ngũ những người lao khổ. Từ “buộc” thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu nguyện gắn bó mật thiết, sống chan hòa với “mọi người”, với “trăm nơi”, với quần chúng đông đảo khắp mọi miền đất nước. Nhóm từ “để tình trang trải” thể hiện tâm hồn nhà thơ như muốn trải rộng với cuộc đời rộng lớn, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với mọi cảnh ngộ của những cuộc đời cần lao. Đây là điều khác biệt với các nhà thơ Mới đương thời, trong khi Tố Hữu giác ngộ cách mạng và đi theo con đường lý tưởng thì các nhà thơ mới lại đang đau buồn với cái tôi bé nhỏ, cô đơn, chôn chặt niềm đau trong những vần thơ bi lụy.

Nhận thức mới của Tố Hữu cũng thật khác xa với nhân vật Hạ Du (Thuốc – Lỗ Tấn), Hạ Du xa rời quần chúng nhân dân để rồi ôm nỗi đau bi kịch của người cách mạng còn Tố Hữu lại biết đứng về nhân dân lao khổ và giác ngộ trong hàng ngũ ấy.

Hai câu thơ này đã khẳng định tình cảm hữu ái giai cấp của Tố Hữu. Tâm hồn của thi sĩ từ đây sẽ nghiêng về phía “bao hồn khổ” để cảm thông, chia sẻ, để cá nhân hòa vào tập thể, tạo nên một sức mạnh quần chúng đông đảo, vĩ đại. Sau này, khi đã trải qua gần 40 năm đời thơ, đời cách mạng, Tố Hữu cũng đã viết: “Tất cả cùng tôi. Tôi với muôn người. Chỉ là một. Nên cũng là vô số!”. Thật đáng quý biết bao tâm hồn cao đẹp ấy.

Nói tóm lại bài thơ “Từ ấy” là một bài thơ của một cái tôi tràn đầy cảm xúc. Đó là cái Tôi lần đầu được giác ngộ lý tưởng và nguyện đem tất cả tinh thần và tuổi trẻ của mình phụng sự cho lý tưởng cao cả ấy. Bài thơ còn là một tuyên ngôn nghệ thuật và mang đậm phong cách thơ Tố Hữu. Nó xứng đáng là một tiếng hát lạc quan, yêu đời, đắm say lí tưởng, ngày nay vẫn làm xúc động hàng triệu trái tim độc giả.

Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Khổ 2 Bài Thơ Đây Thôn Vĩ Dạ (2 Dàn Ý + 15 Mẫu) Những Bài Văn Mẫu Lớp 11

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ khổ 2 chúng ta cảm nhận được những tâm tư của nhà thơ nhờ bức tranh thiên nhiên xứ Huế, tuy những tâm trạng đó chỉ là của riêng tác giả nhưng lại có sức ảnh hưởng, có sự cộng hưởng rộng rãi và bên lâu trong lòng người đọc. Và để hiểu rõ hơn về nội dung đoạn thơ này, mời các bạn cùng theo dõi 15 bài phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ.

Dàn ý phân tích khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ học sinh giỏi

Phân tích khổ 2 Đây thôn Vĩ Dạ (4 Mẫu)

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ khổ 2 (3 Mẫu)

Phân tích khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ

I. Mở bài: giới thiệu khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Ví dụ:

Hàn Mặc tử là một nhà thơ tài hoa nhưng không được may mắn trong cuộc sống. khi ra đi ông để lại một kho tàn văn thơ vô cùng to lớn. các tác phẩm nổi tiếng của Hàn Mặc Tử như âm nhạc, âm thầm, anh điên, bài cửa sổ đêm khuya,… một tác phẩm nổi tiếng nhất của Hàn Mạc Tử đó là bài Đây thôn Vĩ Dạ. bài thơ nói về cảnh nơi thôn Vĩ, nơi có người ông thương. Cảnh đẹp nơi thôn Vĩ được thể hiện rõ nhất qua khổ 2 của bài thơ. Chúng ta cùng đi tìm hiểu khổ 2 của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

II. Thân bài: phân tích khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Câu 1: Gió theo lối gió, mây đường mây

Không gian ở câu này được mở rộng hơn so với đoạn 1: mây, gió

Cảm nhận được sự chia ly, xa cách qua câu thơ

Tâm trạng buồn man mác: gió và mây không thể tách rời nhưng dường như không thể cùng nhau

Câu 2: Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Mọi cảnh vật như chất chứa tâm trạng

Dòng sông như bất động, không muốn chảy, thể hiện tâm trạng buồn

Từ “buồn thiu” như nói lên tâm trạng rõ hơn

Hoa bắp, sự níu giữ nhưng nhẹ nhàng, không thể

Câu 3: Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Sự xa vời

Không gian tràn ngập ánh trăng, hư hư ảo ảo

Trăng là một hình ảnh quen thuộc, thể hiện cho tình cảm, yêu thương

Câu 4: Có chở trăng về kịp tối nay?

Khung cảnh nơi Huế thơ mộng

Câu hỏi thể hiện nên ước mong, nguyện vọng của tác giả

III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Ví dụ:

Khổ 2 bài thơ Đây thôn vĩ Dạ thể hiện cảnh đẹp mơ mộng, huyền ảo của thôn Vĩ, đồng thời thể hiện tâm trạng buồn bã của nhà thơ.

Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) là một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Ông đã để lại cho kho tàng thơ ca Việt Nam nhiều tác phẩm hay được chú ý như Đây thôn Vĩ Dạ, Mùa xuân chín, Nắng vàng, Trên cầu Tràng tiền,…. Trong đó Đây thôn Vĩ Dạ được đánh giá là tác phẩm xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử thể hiện rõ nét tính cách thơ của ông.

Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ về tình yêu và khát khao cuộc sống. Nếu mở đầu bài thơ, người ta cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên và vẻ đẹp tâm hồn người thi sĩ. Thì đến khổ thơ thứ hai, ta cảm nhận được sự hoài niệm, cùng tâm trạng lo âu của người thi sĩ. Đây là một trong những khổ thơ thể hiện chân thực nhất tâm lý tình cảm của người thi sĩ.

Khổ thơ thứ 2 Đây thôn Vĩ Dạ bao gồm 4 câu thơ thể hiện tâm tư, tình cảm của người thi sĩ – của người khách khi nhớ về quê hương. Ngay đầu khổ 2, một bức tranh sông nước đêm trăng được tác giả mở ra rõ nét:

Ở đây ta thấy được sự tài tình của Hàn Mặc Tử. Chỉ bằng vài nét chấm phá thôi nhưng có thể gợi lên cả linh hồn của xứ Huế mộng mơ giữa đêm trăng thơ mộng. Đó là một xứ Huế yên bình, huyền ảo với mây trời êm dịu. Dòng sông Hương trong lời thơ của Hàn Mặc Tử hiện lên thật nhẹ nhàng nhưng cũng rất mênh mông thể hiện được linh hồn của xứ Huế mộng mơ. Đó là cảnh vật: gió khẽ lay, mây khẽ bay,… Ở đây, mọi cảnh vật đều chuyển động nhẹ nhàng, êm ả – là một điều gì đó rất riêng của Huế. Giống như Hoàng Phủ Ngọc Tường từng nói “dòng nước sông Hương cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Sông Hương chảy chậm, thực chậm, đó là điệu slow tình cảm mà dòng sông Hương dành cho xứ Huế”.

Nhưng cảnh vật ấy trong mắt người thi sĩ cũng đượm buồn, chẳng có sự kết nối. Mây và gió vốn là những sự vật gắn liền với nhau, hòa quyện vào nhau. Vậy mà ở đây “Gió theo lối gió, mây đường mây”, như chẳng có chút vương vấn nào.. Cùng với dòng nước “buồn thiu” càng làm nổi bật lên nỗi buồn sâu lắng ấy. Và trong không gian ấy, hoa bắp chỉ khẽ “lay”. Động từ “lay” trong hoàn cảnh này nghe sao hiu hắt, nó giống như một sự níu giữ vu vơ. Hình ảnh “hoa bắp lay” như hiện thân cho thân phận cô độc, lạc loài, bị cuộc đời lãng quên của thi sĩ. Dường như nỗi buồn nhuốm cả vào không gian, cảnh vật, làm tâm trạng con người cũng chẳng thể nào vui được. Câu thơ nghe sao cứ dài đằng đẵng, làm cho nỗi buồn chẳng thể nguôi ngoai.

Đêm trăng đã biến dòng Hương giang trở nên huyền ảo hơn bao giờ hết. Cùng với bầu trời trong vắt, ánh trăng sáng vằng vặc tạo thành những dải ánh vàng trên sống. Nó làm cho dòng sông bỗng hóa thành “dòng sông trăng”. Ở đây, tác giả đã dùng biện pháp nhân hóa đối với dòng sông. Dòng sông không còn đơn thuần là một cảnh vật tĩnh nữa, qua lời thơ của Hàn Mặc Tử nó đã trở thành sinh thể có tâm hồn mang nỗi niềm của con người. Dường như nó chính là đại diện cho người thi sĩ.

Tiếp theo đó, tâm trạng lo âu, thấp thỏm của người thi sĩ được thể hiện rõ nét. Dường như người thi sĩ đã hy vọng quá nhiều, để rồi giờ đây nỗi thất vọng được bộc lộ rõ ngay trên dòng Hương giang này. Đó không đơn thuần là nỗi thất vọng, đó còn là nỗi sợ, nỗi băn khoăn về sự chia ly cách biệt.

Một cảnh vật lung linh, huyền ảo với ánh trăng ngập lối được mở ra. Hình ảnh ấy mang đến ý nghĩa vừa thực vừa ảo như tâm trạng của người thi sĩ vậy. Ở đây, tác giả dùng “sông trăng” để miêu tả dòng sông ngập tràn ánh trăng mang đến sự kỳ vĩ. Còn chiếc thuyền đậu trên dòng sông trăng ấy giống như chính người thi sĩ. Ánh trăng dường như đã ngập tràn tất cả không gian và thời gian, gợi lên một cảm giác mơ hồ.

Ở đây tác giả sử dụng “thuyền ai” vừa như câu hỏi, vừa như câu cảm thán. “Thuyền ai” vô cùng mơ hồ nhưng ta biết đó là khát vọng của người thi sĩ, mong mỏi về người xưa, chốn cũ. Trong khi đó “thuyền ai” lại gợi ra một hình ảnh đơn độc. Hình ảnh ấy chẳng rõ ràng mà mờ ảo, mong manh giống như ánh trăng lúc có lúc không. Đó cũng là điều thể hiện niềm lo âu, phấp phỏng của người thi sĩ.

Có lẽ, Hàn Mặc Tử muốn dùng dòng sông trăng để mở ra một thế giới tri âm chất chứa tâm sự. Đó cũng là thế giới để tác giả giải tỏa những niềm đau, sự lo lắng. Trong giọng điệu của câu thơ ta thấy được nỗi niềm khát khao, khắc khoải đến cháy bỏng của Hàn Mặc Tử. Nó được thể hiện rõ nét qua từ “kịp” mà tác giả sử dụng trong câu. “Kịp” có nghĩa là chưa chắc chắn nên người thi sĩ mới lo âu sống trong tâm trạng chờ đợi, khát khao. Cái sự “kịp tối nay” mà tác giả đưa ra cũng như một lời khẩn cầu tha thiết, bởi chỉ qua ngày mai thôi, mọi thứ sẽ chỉ còn là dấu chấm hết. Qua đó ta cũng thấy được dường như cuộc sống của người thi sĩ đang vơi cạn từng ngày. Sự chia ly có thể đến bất cứ lúc nào. Thế nên nếu thuyền không chở được “trăng” về tối nay, người thi sĩ chẳng tìm được sự tri âm sẽ phải ra đi vĩnh viễn trong buồn đau, ân hận.

Với bút pháp tả cảnh gợi tình đầy tinh tế, hình ảnh chắt lọc, Hàn Mặc Tử đã mang đến cho người đọc một Đây thôn Vĩ Dạ gần gũi, thân thuộc. Đó là miền quê hương đất nước, một nơi gắn bó với tuổi thơ. Bài thơ còn là tiếng lòng của một trái tim yêu người, yêu đời mãnh liệt. Nhưng niềm tin yêu ấy lại sớm chìm trong vô vọng. Và khổ 2 trong Đây thôn Vĩ Dạ chính là sự chứng minh cho sự vô vọng ấy. Khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ là sự hoài niệm của tác giả về nơi từng gắn bó với mình – dòng sông Hương và tâm trạng lo âu, phấp phỏng khi đợi chờ tri âm, tri kỷ. Đây có lẽ là khổ thơ hay thể hiện tâm trạng của tác giả trong chặng đường chờ đợi sự tri âm, sẻ chia.

Ai đó đã từng nói “Thơ là tiếng lòng. Đọc thơ, ta nghe thấy tiếng nói cất lên từ sâu thẳm trái tim của thi sĩ. Thơ là sự lên tiếng về thân phận. Đến với bài thơ, ta cảm được tình cảnh, tình thế số phận của nhà thơ”. Và “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử là một bài thơ như thế. Đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta thấy được một trong những nét độc đáo làm nên phong cách thơ rất lạ của ông, đó là mạch thơ đứt đoạn mà thống nhất, nghĩa là bề ngoài kết cấu như rời rạc nhưng lại có sự thống nhất trong chiều sâu của mạch cảm xúc. Nếu khổ thơ đầu là sự bừng sáng kí ức của hoài niệm về vườn Vĩ Dạ lúc hửng đông thì khổ thơ thứ hai lại cảnh xứ Huế đêm trăng thơ mộng cùng bao nỗi niềm chia lìa, lạc loài bơ vơ, buồn thương tuyệt vọng:

Chỉ bằng vài nét chấm phá tinh tế, gợi cảm Hàn Mặc Tử đã gợi dậy một cách thần tình cả linh hồn của xứ Huế đêm trăng thơ mộng, huyền ảo. Ở phương diện tả cảnh, mới đọc câu thơ “Gió theo lối gió mây đường mây” cứ tưởng là phi lý nhưng ngẫm kĩ đó lại là sản phẩm của ngòi bút xuất thần. Hàn Mặc Tử đã gợi tả tinh tế, chính xác tài hoa vẻ êm dịu của mây trời xứ Huế. Êm dịu đến mức ta thấy gió thổi mà như mây đứng yên. Hai chữ “buồn thiu” gợi tả vẻ dùng dằng, lặng lờ của dòng nước sông Hương. Nói như Hoàng Phủ Ngọc Tường thì dòng nước sông Hương cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Sông Hương chảy chậm, thực chậm, đó là điệu slow tình cảm mà dòng sông Hương dành cho xứ Huế. Trong đêm trăng Hương giang thật huyền ảo ấy, bầu trời trong vắt, trăng vằng vặc dải ánh vàng trên sông. Dòng nước bỗng hóa thành dòng sông trăng, những con thuyền gối bãi ăm ắp đầy trăng. Hàn Mặc Tử vốn say trăng, yêu trăng là vậy. Bài thơ nào của ông cũng có đôi câu về trăng. Đọc “Đây thôn Vĩ Dạ”, dễ thấy đây là những vần thơ dịu êm và huyền ảo nhất trong dòng thơ trăng của thi sĩ.

Bị cuộc đời tuyệt giao từ chối, thơ ca thiên nhiên là nơi Hàn Mặc Tử chút bầu tâm sự, giãi bày lòng mình. Ngoại cảnh dường như chỉ là cái cơ để thi sĩ bày tỏ tâm sự, trải niềm đau của hồn mình, bức tranh “Đây thôn Vĩ Dạ” cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Ngay ở trong câu thơ đầu tiên của khổ thơ thứ hai, ta đã thấy được sự chia lìa, ngang trái:

“Gió theo lối gió mây đường mây” ,Gió mây luôn đi đôi với nhau, sóng đôi cùng nhau, vậy mà ở đây lại chia lìa xa cách, gió một đằng, mây một nẻo. Tại sao vậy? Có phải chăng trái tim thi sĩ luôn trĩu nặng chia lìa, thành ra nhìn đâu cũng thấy chia ly cách biệt. Không chỉ gió mây chia lìa, sông nước hắt hiu, dòng nước buồn thiu hoa bắp lay. Dòng sông ôm lấy nỗi buồn ngậm ngùi câm lặng, rười rượi. Dòng sông vốn ủ sẵn mối sầu hay sự chia lìa, ly tán của gió mây đã gieo vào lòng sông chết lặng? Hay mối sầu thăm thẳm trong lòng của thi sĩ đã ám bào dòng sông? Khó có thể lý giải một cách rõ ràng được. Chỉ thấy đọc câu thơ lên, lòng ta bỗng trào dâng một nỗi niềm bâng khuâng mà da diết, khắc khoải mà khôn nguôi. Phụ họa với dòng nước buồn thiu là bông hoa bắp xám bạc khẽ lay trong gió. Động từ “lay” tự nó vốn không vui, không buồn như trong câu thơ này, không hiểu sao nó lại ẩn chứa nỗi niềm hiu hắt đến vậy. Có phải chữ “lay” ấy đã mang theo nỗi buồn trong câu ca dao:

Trong không gian nghệ thuật, hình ảnh hoa bắp lay thật tủi sầu. Tất cả dường như đang bỏ nơi này mà đi. Gió bay đi, mây bay đi, dòng nước cũng trôi xuôi, chỉ còn bông hoa bắp cô đơn, côi cút, vật vờ trên triền sông hoang vắng. Động thái “lay” như một sự níu giữ vu vơ, một lưu luyến vô vọng. Hình ảnh hoa bắp “lay” cứ như hiện thân cho thân phận lạc loài, bơ cơ, bị cuộc đời lãng quên của thi sĩ.

Đối mặt với xu thế tất cả đang bỏ đi, rời xa mình, thi sĩ chợt ao ước có một thứ gì đó ngược dòng trôi chảy trở về với mình, gắn bó với mình. Với Hàn Mặc Tử, đó là trăng, và cũng chỉ có chăng mà thôi:

Tại sao Hàn Mặc Tử lại mong ngóng ao ước, khao khát có trăng như vậy? Phải chăng bị chôn vùi trong lãnh cung chia lìa, mù tối, “không có niềm trăng và tiếng nhạc” nên thi sĩ ao ước có trăng như thế? Hơn thế, với Hàn Mặc Tử, chí có trăng sao là bất tử. Đặc biệt, với thi sĩ, trăng không chỉ đơn thuần là nguồn sáng, huyền ảo, diệu kì nhất của thiên nhiên mà trăng là biểu tượng cho cuộc sống tươi đẹp, tràn ngập hạnh phúc mà thi sĩ khao khát. Với những ý nghĩ như thế, giờ đây, “trăng là bám víu duy nhất”, là tri ân, tri kỷ, là cứu tinh với Hàn Mặc Tử. Giọng điệu, chữ nghĩa trong câu thơ bật lên niềm khát khao, da diết, khắc khoải đến cháy bỏng. Câu thơ mang vóc dáng của một lời khẩn cầu, khẩn nguyện tha thiết. Nhưng thật xót xa, bi kịch thay cho thi sĩ, ngay trong lời khẩn cầu da diết đến cháy bỏng ấy, ta thấy hằn lên một nỗi lo âu hoài, tuyệt vọng, đến đau đớn. Nỗi niềm ấy ghim chặt vào mấy chữ “kịp tối nay”. Cơ hội đón trăng, đắm mình trong trăng thật ngắn ngủi mong manh biết chừng nào.

Chỉ còn đêm nay thôi, sáng mai đã là một dấu chấm hết. Lưỡi hái tử thần đang kể tận cổ, chuông nguyện hồn ai đã dóng lên. Cơ hội mong manh, thời gian ngắn ngủi là thế mà bến sông trăng cứ ở mãi ngoài kia xa vời vợi. Không dùng hình thức cầu khiến, câu thơ là lời hỏi hoài nghi đầy tuyệt vọng. Có lẽ khi cất lên lời khẩn cầu tha thiết, thi sĩ đã có lời giải đáp cho mình. Chẳng bao giờ con thuyền chở trăng về kịp tối nay cho thi sĩ. Thi sĩ sẽ mãi rời xa cõi đời này trong đau đớn, tuyệt vọng. Đọc những vần thơ này, ta cảm thấy quặn lòng đau đớn. Vọng về đâu đây dự cảm xót xa:

Với bút pháp gợi tả, hình ảnh tinh tế, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một miền quê hương đất nước, Vĩ Dạ-xứ Huế mộng và thơ. Bài thơ còn là tiếng lòng uẩn khúc của một trái tim yêu người, yêu đời, thiết tha, mãnh liệt trong vô vọng. “Đây thôn Vĩ Dạ” xứng đáng là kiệt tác thơ Hàn, một viên ngọc chói lọi nghìn năm.

Vẻ đẹp của thôn Vĩ qua những câu thơ ấy của Bích Khê đầy ấn tượng. Vĩ Dạ đẹp, Vĩ Dạ buồn, Vĩ Dạ đắm say lòng người ngoạn cảnh đã cuốn hút biết bao người đắm chìm trong đó để rồi có một người cho ta một bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đặc sắc – Hàn Mặc Tử.

Vĩ Dạ đẹp với những khu vườn xanh tốt, mượt mà dưới ánh bình minh, với những con người dịu hiền, phúc hậu thấp thoáng sau cành tre lá trúc thanh tao. Vĩ Dạ dịu dàng thơ mộng với dòng sông hiền hoà:

Cặp câu thơ đầu bằng biện pháp miêu tả có sức gợi sâu sắc hình ảnh mây gió vần vũ. Câu thơ cho ta nhiều cách hiểu khác nhau. Có người cho rằng, thông thường thì gió và mây là những sự vật gắn kết với nhau, luôn đi liền nhau, bởi vậy giờ đây, khi “gió theo lối gió mây đường mây” nghĩa là tất cả đang ở trong thế của sự chia lìa, tan tác. Điều này phù hợp với tâm trạng của tác giả. Nhưng đối với thiên nhiên, khi gió to thì mây vần vũ, lúc bấy giờ, gió mới thổi mây bay đi. Còn ở đây, trong Vĩ Dạ của xứ Huế, tất cả đều mang một vẻ đẹp nhẹ nhàng và thơ mộng. Nơi đây, mây cứ lững lờ bay ở bên trên còn gió thì hiu hiu thổi, gợi lên cái gì đó buồn bã, phù hợp với tâm trạng của chính tác giả.

Mọi sự xuất hiện của cảnh vật đều gợi cảm giác buồn. Cả dòng nước trôi cũng không nằm ngoài âm hưởng chung ấy: “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”. Dòng nước thâm cái buồn của ngoại cảnh hay ấy chính là cái “buồn thiu” của tâm cảnh đang lan tỏa và bao trùm lên ngoại giới. Bên bờ sóng, những bông hoa kia nhữ cũng thấm nỗi buồn của cảnh vật nên cũng chỉ khẽ khàng lay động. Ta cũng đã từng bắt gặp hình ảnh hoa bắp lay đó ở nhiều câu thơ nhưng dù ở đâu thì nó cũng thật buồn. Là những câu thơ của Huy Thông:

Hay đó là nỗi buồn trước cảnh hoa lay lan toả trong lòng người đọc:

Dù là nỗi buồn của cảnh chia li, nỗi buồn của nỗi chờ mong mỏi mòn nhưng cảnh bờ sông và những cây bắp, lau bên bờ sông đều mang lại cho người ta cảm giác buồn. Dòng sông và cây hoa bắp lay của Hàn Mặc Tử cũng vậy, đẹp một vẻ đẹp buồn nhẹ nhàng và thơ mộng. Thiên nhiên đẹp nhưng cũng thật lạnh lẽo, dường như nó phảng phất tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà thơ trước sự xa cách, thờ ơ của cuộc đời đối với mình.

Trong khung cảnh sông nước nên thơ, thời gian chuyển biến linh hoạt. Thoắt cái, cảnh vật đã chuyển sang một buổi đêm trăng huyền ảo:

Hai câu thơ sau cho thấy tâm hồn nhà thơ có buồn và cô đơn nhưng vẫn chan chứa tình yêu đối với con người và thiên nhiên xứ Huế. Đây là cảnh thực mà cứ như ảo vì dòng sông không còn là dòng sông của sóng nước nữa mà là dòng sông ánh sáng, lấp lánh ánh trăng vàng, hay đấy là dòng ánh sáng tuôn chảy khắp vũ trụ làm không gian nghệ thuật thêm hư ảo, mênh mang. Cũng vì thế, con thuyền vốn có thực trên dòng sông đã trở thành một hình ảnh của mộng tưởng, nó đậu trên bến sông trăng để chở trăng về một bến nào đó trong mơ. Là thuyền ai? Thuyền của người thôn Vĩ hay con thuyền của chính tác giả? Cũng không rõ nữa, chỉ biết rằng con thuyền ấy chở đầy trăng. Bằng ngòi bút liên tưởng và trí tưởng tượng phong phú, Hàn Mặc Tử đã phác hoạ được nét đẹp nhất của sông Hương là vẻ huyền ảo thơ mộng dưới ánh trăng. Đến câu thơ cuối, con thuyền, dòng sông, ánh trăng trong sự hồi tưởng quá khứ ấy lại gắn với cảm nghĩ của nhà thơ trong hiện tại, bởi nhà thơ mong muốn con thuyền chở trăng về kịp tối nay chứ không phải là một tối nào khác? Con thuyền trở thành con thuyền nhỏ trên mình người du khách đặc biệt, liệu có kịp cập một bến thời gian nào đó tôi nay? Phải chăng cái “tối nay” đó là một tối thật buồn và cô đơn, nhà thơ đang có những tâm sự mà chỉ có trăng mới có thể hiểu được? Điều đó cho thấy Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, rất yêu xứ Huế, yêu cảnh vật và con người nơi đây nhưng dường như cảnh Huế, người Huế không hiểu được, không đáp lại tình yêu ấy nên nhà thơ tìm đến vầng trăng như một người để trút bầu tâm sự cho vơi đi cảm giác lẻ loi, cô đơn và những mặc cảm bệnh tật.

Cả bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một tác phẩm nghệ thuật để lại cho người đọc nhiều suy tư. Bằng những biện pháp tu từ và cặp mắt quan sát, cảm nhận tinh tế của mình, Hàn Mặc Tử đã tiếp tục vẽ những nét vẽ khắc họa rõ hơn về thôn Vĩ trong khổ thơ thứ hai. Với sông Hương, dòng nước trôi hờ hững, với mây bồng bềnh, con thuyền, ánh trăng và đặc biệt là một tấm lòng yêu thiên nhiên, khát khao, khắc khoải trong khát vọng tình đời, tình người, nhà thơ sẽ khiến cho người ta còn mãi vương vấn về một Vĩ Dạ của xứ Huế mộng mơ, nơi có một cặp mắt đau đáu hướng về

Hàn Mặc Tử được biết đến là ngôi sao băng ngắn ngủi trong phong trào thơ mới. Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng nói của một hồn thơ yêu cảnh vật, yêu cuộc sống, yêu con người tha thiết, nồng nàn. Tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ phản ánh lại tình yêu, khát khao cuộc sống của tâm hồn đó. Khổ thơ thứ 2 của bài thơ mang đến một hồi ức và tâm trạng âu lo của thi sĩ.

Khổ hai: bầu trời, sông nước Vĩ Dạ thôn trong tâm trạng buồn bã, chia rời, tuyệt vọng và đau đáu một nỗi khát khao được trùng phùng của Hàn Mặc Tử. Câu thơ đầu với cách ngắt nhịp 4/3 tạo nên 2 vế đối lập nhau. Xuất hiện hai hình ảnh của thiên nhiên đó là gió và mây, theo một quy lực tự nhiên thì “Gió thổi mây bay” có nghĩa là gió và mây sẽ luôn luôn song hành, đi cùng với nhau. Thế nhưng trong câu thơ của Hàn Mạc Tử thì hình ảnh gió và mây dường như đối lập nhau. Sự đối lập trái ngược với quy luật của tự nhiên, của vũ trụ như ngầm dự báo về sự xa cách chia lìa sắp xảy ra. Thiên nhiên không hòa hợp vì chính con người cũng đang mang trong mình tâm trạng bất an, mặc cảm chia lìa cõi đời.

Tác giả sử dụng nghệ thuật nhân hóa gắn tâm trạng “buồn thiu” lên “dòng nước”. Dòng nước trở nên bất động, không muốn trôi chảy, mặc kệ sự đời như đang dần đánh mất sự sống. Hàn Mạc Tử mang trong mình nỗi buồn trĩu nặng. Hình ảnh hoa bắp kết hợp với động từ chỉ trạng thái “lay”, một sự chuyển động rất nhẹ, gợi lên không gian vắng lặng với sự hiu hắt, thiếu vắng, u buồn, cô đơn. Cảnh sắc được nội tâm hóa bộc lộ nỗi đau thân phận, sự chia lìa xa cách của nhân vật trữ tình.

Cảnh tuy đẹp nhưng lại đơn độc, rời rạc, hiu hắt mang trong mình tâm trạng cô đơn, u sầu của nhà thơ trước cuộc đời nghiệt ngã. Cảnh sắc sông Hương xứ Huế hiện lên thấm đẫm nỗi buồn, hoa bắp lay, gió mây đôi ngả hoang vắng rợn ngợp chứa đựng nỗi buồn của sự thê lương. Nỗi buồn nhà thơ hòa hợp với nhịp buồn xứ Huế cùng những khát khao khôn nguôi.

Trong tâm trạng thê lương buồn thảm ấy, chợt hiện lên những ước ao hy vọng là có một điều gì đó có thể trở về với mình để bám víu, để níu giữ. Dường như ước mơ của nhà thơ Hàn Mạc Tử thường gắn với ánh trăng, với chiếc thuyền thể hiện khao khát tri âm, trùng phùng.

Ở hai câu thơ tiếp theo tác giả đã miêu tả cảnh đêm trăng của thiên nhiên, cảnh sông Hương xứ Huế, một trong những địa danh tiêu biểu khi nhắc đến Huế. Hình ảnh thuyền chở trăng một hình ảnh vô cùng lãng mạn và đầy thi vị. Sông trăng: là dòng sông lấp lánh soi bóng ánh trăng vàng, chất chứa trong mình linh hồn của cảnh sắc thiên nhiên. Đại từ phiếm chỉ “ai” đặc tả cảm giác mơ hồ, xa lạ, đầy mơ ảo, không biết rằng đó là chiếc thuyền của ai của người dân xứ Huế hay của Hoàng Cúc. Hay chỉ đơn giản là nhà thơ nói một cách bâng quơ như thế. Chính sự bâng quơ ấy lại gợi lên được tâm trạng của nhà thơ mơ hồ, khó tả.

Thông qua vẻ đẹp huyền ảo của sông trăng, ánh trăng tác giả đã gợi tả lên được vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, êm đềm và thơ mộng. Câu hỏi tu từ “kịp tối nay?” thể hiện sự thảng thốt, băn khoăn mang trong mình cái vẻ khắc khoải, khẩn thiết. Chữ “kịp” làm cho thời gian như bị rút ngắn lại, trở nên ngắn ngủi. Xuất hiện hàng loạt câu hỏi ẩn chứa sự day dứt, đợi chờ và lo lắng trong tâm hồn của nhà thơ. Hình ảnh “Thuyền chở trăng”, “bến sông trăng” là hình ảnh trôi giữa hư vô và thực tại, nỗi niềm mong ước được hội ngộ giao duyên.

Những ước muốn tưởng chừng đơn giản ấy của Hàn Mặc Tử lại gắn liền với những đau thương và dự cảm tan vỡ. Cảnh vẫn đẹp nhưng lại thấm đượm vẻ hiu hắt, buồn bã, lạnh lẽo. Tác giả đã cảm nhận được nỗi buồn của một con người phải xa cách với cuộc đời ở tuổi 28 chỉ vì căn bệnh phong quái ác.

Nếu khổ thơ thứ nhất cảnh sắc mà tác giả đưa đến cho người đọc là thiên nhiên tươi sáng, tràn đầy sức sống thì sang đến khổ thơ thứ hai cảnh vật đột ngột nhuốm màu sắc u buồn, trầm mặt. Trong nỗi buồn tha diết ấy thì tác giả như muốn nương tựa vào cái đẹp của tình người tình đời nhưng càng trông ngóng thì vẫn không tránh khỏi những tuyệt vọng để rồi nhà thơ chìm sâu vào mộng cảnh. Khổ thơ thứ hai này góp phần tạo sự gắn kết và giá trị sâu sắc cho cả bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ một lần nữa giúp khẳng định tài năng cũng như thể hiện những cảm xúc chân thật nhất của Hàn Mặc Tử- nhà thơ “điên”.

Hàn Mặc Tử là một trong những gương mặt đặc sắc của phong trào Thơ mới. Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng nói của một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu cảnh vật, yêu con người nồng nàn, tha thiết. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là bài mang một tình yêu, khát khao cuộc sống như vậy. Khổ thơ thứ 2 của bài thơ mang đến một hoài niệm và tâm trạng lo âu của thi sĩ.

Mở đầu bài thơ, người đọc đã cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn người thi sĩ. Ta thấy thi sĩ tuy phải sống cuộc đời đầy bi kịch nhưng vẫn khát khao được sống và yêu đời tha thiết.

Khổ thơ thứ hai được mở ra, khiến người đọc cảm nhận được hoài niệm về cảnh sông nước đêm trăng, hòa theo đó là tâm trạng lo âu, phấp phỏng của thi sĩ. Cảnh sông nước đêm trăng được gợi ra:

Dòng sông có nhiều cách hiểu, nhưng dù hiểu theo cách nào thì vẫn gợi ý thức về sông Hương-linh hồn của Huế. Cảnh vật được miêu tả rất nhẹ nhàng, êm ả, gợi đặc điểm riêng của Huế: gió khẽ lay, mây khẽ bay, hoa bắp khẽ đung đưa, chuyển động rất nhẹ nhàng, êm ả, gợi không gian rất thanh bình, rất Huế. Cảnh vật đượm buồn: buồn thiu, buồn sâu lắng, buồn nhuốm vào không gian, cảnh vật, thường là nỗi buồn từ thế giới bên ngoài tác động. Câu thơ như dài ra, căng ra, khiến nỗi buồn như dằng dặc. Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật “nhân hóa”, dòng sông đã trở thành một sinh thể, có tâm trạng, có hồn, mang nỗi niềm của con người. Cảnh vật như nhuốm màu chia ly “Gió theo lối gió mây đường mây”. Câu thơ tách nhịp 4/3 chia làm hai nửa: một gió một mây. Từ “gió” được điệp lại ở vế một, đóng khung một thế giới đầy gió, chỉ có gió, chỉ riêng gió. Từ “mây” điệp ở vế hai, tạo nên một thế giới mây khép kín chỉ có mây. Vậy là hai sự vật vốn dĩ chỉ đi liền với nhau thì nay tác biệt và chia lìa. Gió đóng khung trong gió, mây khép kín trong mây. Câu thơ mang đến một hiện thực phi lý về hiện thực khách quan, nhưng rất có lý về hiện thực tâm trạng. Thi sĩ đang sống trong cảnh chia ly, cách biệt, sống trong cảnh đời đầy nghịch lý cho nên gió cứ gió, mây cứ mây. Từ “lay” mang một nỗi buồn trong ca dao, chỉ hoạt động rất nhẹ của sự vật hiện tượng khi có gió nhẹ. Nó mang nỗi buồn truyền thống của ca dao, thổi vào nỗi buồn muôn thuở của con người.

Hai câu thơ sau, ta nhận ra được tâm trạng lo âu, phấp phỏng của thi sĩ:

Cảnh vật được gợi ra một cách lung linh, huyền ảo, tràn ngập ánh trăng, mang ý nghĩa vừa thực vừa ảo. “Sông trăng” có thể hiểu là dòng sông tràn ngập ánh trăng, cũng có thể là trăng tuôn chảy thành dòng. “Thuyền trăng” là con thuyền chở đầy trăng, cũng có thể hiểu là trăng giống như hình ảnh một con thuyền. Dù hiểu theo cách nào thì trăng đã tràn ngập cả không gian, vừa thực vừa ảo, tạo nên một cảm giác mơ hồ. Trong thơ của Hàn Mặc Tử có cả một miền trăng, để có một thế giới tri âm, chất chứa tâm sự, giải tỏa những niềm đau, trăng đối với Hàn Mặc Tử là một người bạn tri âm. “Thuyền ai” lại gợi ra một danh từ phiếm chỉ. Hai câu thơ chứa đựng cả những hình ảnh mâu thuẫn. Câu dưới không có trăng, ý thơ phi lý về hiện thực nhưng chúng ta có thể lý giải được khi dựa vào tâm trạng của chủ thể trữ tình. Trăng lúc có lúc không, mong manh và mờ ảo, người tri kỷ cũng mờ ảo và mong manh nên lo âu, phấp phỏng là thế. Chờ trăng là chờ sự tri âm, chờ sự đồng điệu, chờ sự sẻ chia và chờ được khát khao, giao cảm với đời, là một con người bình thường mong muốn sự giao cảm. Từ “kịp” thể hiện một tâm trạng lo âu của nhà thơ, tâm trạng đợi chờ, khao khát. Qua đó thể hiện được quỹ thời gian sống đang bị vơi cạn đi từng ngày, cuộc chia lìa vĩnh viễn có thể đến bất cứ lúc nào. Với một người bình thường nếu không trở về tối nay thì còn nhiều những đêm khác, nhưng với Hàn Mặc Tử nếu thuyền không trở về tối nay, không có sự tri âm thì thi sĩ sẽ ra đi vĩnh viễn trong đau buồn.

Những cảm nhận khổ 2 bài Đây thôn Vĩ Dạ cho ta thấy được hoài niệm của tác giả về cảnh sông nước đêm trăng, đồng thời cũng hiểu được tâm trạng lo âu, phấp phỏng của nhà thơ. Tác giả cũng đang chờ đợi sự tri âm, sự chia sẻ để dịu bớt nỗi đau trên hành trình trở về thế giới bên kia. Đó hay chăng chính là sự xót xa trong bi kịch cuộc đời của một thi sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh.

Đây thôn Vĩ Dạ là Bài thơ được viết ra từ hai nguồn cảm hứng: thứ nhất là cảm hứng đẹp với một ngôi làng vùng quê ven bờ sông Hương, cây cối tốt tươi, thơ mộng. Cảm hứng thứ hai, theo nhà thơ Quách Tấn đó là mối tình đơn phương nhiều ước mơ với Hoàng Cúc.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bài thơ rất nổi tiếng của Hàn Mặc Tử, in trong tập Thơ điên. Bài thơ không chỉ làm rạng danh cho một thi sĩ tài hoa, đa cảm nhưng cuộc đời gặp nhiều cảnh ngộ éo le, bất hạnh mà còn góp phần tô điểm cho một địa danh vốn đã nổi tiếng ở Huế:

Đây xứ mơ màng, đây xứ thơ

Bài thơ gồm ba khổ: Khổ một là vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, chứa chan sức sống của khu vườn trong ánh nắng ban mai. Khổ hai: bầu trời, sông nước Vĩ Dạ trong tâm trạng buồn, chia li tuyệt vọng và đau đáu một nỗi khát khao gặp gỡ của Hàn Mặc Tử.

Tiếp theo khổ một đặc tả vẻ đẹp trong sáng, thơ mộng, tràn đầy sức sống của vườn thôn Vĩ Dạ vào một buổi sớm mai, khổ hai đã mở rộng ra khung cảnh bầu trời, sông nước Vĩ Dạ. Bài thơ dường như có sự vận động từ ngoại cảnh vào tâm cảnh. Vì thế, Bầu trời sông nước cũng nhuốm đầy tâm trạng thi nhân. Cảnh vật xuất hiện với bốn hình ảnh: “gió”, “mây”, “dòng nước”, “hoa bắp”. Hai hình ảnh “gió”, “mây” ở đây trở nên chia lìa, trái tự nhiên, không hoà nhập “gió một đường, mây một nẻo” này được thể hiện theo logic của tâm trạng buồn, cô đơn vì mối tình ở dạng “đơn phương”, “vô vọng” của nhà thơ với Hoàng Cúc. Chú ý phân tích các điệp từ, cách ngắt nhịp câu thơ đã làm nổi bật cảm xúc trên.

Câu thơ thứ hai với hai hình ảnh “dòng nước” và “hoa bắp” cũng đã tiếp tục tô đậm thêm tâm trạng thi nhân: buồn lặng lẽ, hiu hắt, có thể hiểu hai câu thơ ở khổ thơ này vừa tả cảnh, vừa tả tình trong cảnh và cả nhịp điệu của cảnh: Tình buồn chia li, sầu tủi, hiu hắt. Cảnh êm đềm phẳng lặng, nhịp điệu cảnh “trầm tư chẳng nơi nào có được” của Huế đẹp và thơ.

Cùng với cảm giác chìa lìa, mạch thơ đã chuyển hẳn một thế giới thôn Vĩ thực và tràn trề ánh nắng ở khổ 1 sang một thế giới mộng, tắm đẫm ánh trăng ở khổ 2:

Trăng dưới ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử bỗng trở nên huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực nửa hư, như trong cõi mộng. Trăng vốn là biểu tượng cho cái đẹp, cho hạnh phúc, niềm vui. Với Hàn Mặc Tử, trong bối cảnh lúc đó, trăng có ý nghĩa như “một bám víu duy nhất, như người bạn tri âm, tri kỉ”, giờ chỉ còn là nỗi ước ao, khát khao gặp gỡ và nỗi niềm lo âu về sự muộn màng, dang dở. Vì thế, câu thơ của Tử cất lên như một câu hỏi đau đáu, một nỗi niềm day dứt đầy phấp phỏng “Có chở trăng về kịp tối nay?”.

Phong trào thơ mới năm 1932-1945 là sự nở rộ của cái tôi cá nhân. Có thể thấy nếu thơ trung đại gắn liền với những điều lớn lao, ước lệ thì thơ mới gắn liền với cảm xúc. Như nhà thơ Hàn Mạc Tử nói rằng: “tôi làm thơ nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng”. Về cơ bản thơ Hàn luôn hướng tới quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật nhưng cái đẹp trong thơ ông lại riêng biệt, nó là nét đẹp kì dị, đau thương đan xen với những thứ hư ảo. Thiên nhiên trong thơ ông cũng vậy, nhuốm màu tâm trạng, như thực mà như mơ:

Bốn câu thơ được trích trong bài thơ nổi tiếng Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử đã vẽ lên một bức tranh sông nước xứ Huế nhưng bức tranh ấy cũng đượm nỗi buồn lo. Mở đầu khổ thơ với hình ảnh ” gió” và “mây”. Gió và mây xưa kia thường ” gió thổi mây bay” nhưng trong thơ ông hai sự vật ấy lại chia làm đôi ngả.

Những thứ vốn dĩ không thể tách rời thì hồn thơ Hàn Mạc Tử đã chia cắt những thứ không thể cắt chia. Bản thân dòng nước cũng là một vật vô tri vô giác trong tự nhiên nhưng với biện pháp nhân hóa ” dòng nước buồn thiu” khiến nó có những cảm xúc buồn, vui của con người. Điệu chảy ” buồn thiu” của dòng sông Hương lững lờ yên tĩnh như điệu làn êm ả. Không những vậy dường sự chảy trôi vô định của dòng nước thấm đẫm nỗi buồn ly tán của sự vận động giữa mây và gió hay chính là sự mặc cảm chia lìa của Hàn Mạc Tử lây lan sang cảnh vật.

Đúng như lời Nguyễn Du đã nói trong truyện Kiều ” lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trên dòng sông Hương xứ Huế ấy là những “hoa bắp lay” khẽ lay động ở đôi bờ, rất nhẹ và rất khẽ, đặt cùng gió, mây, nước hoa bắp “lay” ấy trong ca dao và cũng gặp cái buồn ấy trong thơ , trong nỗi buồn của người chinh phụ, Trúc Thông có viết: “Lá ngô lay ở bờ rông”.

Cảnh sông Hương xứ Huế hiện lên thật buồn , gió mây đôi ngả, hoa bắp lay , hoang vắng rợn ngợp thấm thía nỗi buồn của sự thê lương. Nỗi buồn thi sĩ hòa hợp với nhịp buồn xứ Huế cùng những khát khao khôn nguôi:

Trong tâm trạng thẻ lương ấy, chợt bật lên những ước ao hy vọng là có một điều gì đó có thể trở về với mình để níu giữ, để bám víu. Dường như ước mơ của thi sĩ thường gắn với trăng, với thuyền thể hiện khao khát tri âm. Bởi thuyền chở trăng mang một vẻ đẹp mà tác giả luôn hướng tới, vẻ đẹp hư ảo huyền hoặc khó phân định . Đây quả là một sản phẩm của trí tưởng tượng với dòng sông trăng đang trôi chảy, hay trăng đang lan mình thành nước để trôi chảy từ vũ trụ về nơi xa. Thuyền chở trăng vừa mơ vừa thực. Bên cạnh những khát khao mong đợi ấy còn là những lo âu qua từ “kịp”, nỗi mong ước thầm kín đã tìm được nơi gửi gắm là con thuyền trên sông trăng nhưng càng khao khát hy vọng thì lại càng lo âu bởi nỗi mặc cảm vì hiện tại ngắn ngủi. Khát vọng thì ít mà cảm giác tuyệt vọng thì lấp đầy tâm hồn. Những mong muốn tưởng chừng giản đơn ấy của Hàn Mặc Tử lại gắn liền với những đau thương và dự cảm đổ vỡ.

Advertisement

Nếu khổ thơ mở đầu là cảnh thực thì cảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ dạ nghiêng về thế giới ảo. Trong nỗi buồn da diết thì nhà thơ muốn nương tựa vào cái đẹp của tình đời tình người nhưng càng trông đợi thì vẫn không tránh khỏi những tuyệt vọng để rồi tác giả chìm sâu vào cõi mộng. Khổ thơ thứ hai này góp phần tạo sự liên kết và giá trị sâu sắc cho cả bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ giúp khẳng định tài năng và thể hiện những cảm xúc chân thật nhất của Hàn Mặc Tử- nhà thơ “điên”.

Trong phong trào Thơ Mới các nhà thơ được tự do thể hiện cái tôi cá nhân của mình. Nếu như Xuân Diệu thể hiện tình yêu thiên nhiên yêu con người nhưng vẫn cô đơn hoài nghi của mình, Lê Trọng Lư thì thả sức phiêu lưu cùng những bài ca tình yêu thì Hàn Mạc Tử lại quằn quại đau đớn trong những vần thơ về bệnh tật. Đọc thơ Hàn Mạc Tử ta không thể nào không nhớ đến bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – một bài thơ chở đầy những cảm xúc của nhà thơ về con người về mảnh đất Huế thương. Đặc biệt trong bài thơ ấy ta ấn tượng nhất với những cảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ khi nó mang đầy bi kịch và chất chứa bao nỗi buồn.

Bài thơ được sáng tác khi nhà thơ nhận được tấm bưu thiếp của người con gái mang tên một loài hoa đó là nàng Hoàng Cúc. Nhà thơ gặp cô gái ấy ở Huế và đã có một khoảng thời gian ở cạnh nhau. Cả nhà thơ cũng như cô gái đều hiểu được tấm lòng của mình trái tim của mình nhưng khổ nỗi nhà thơ vốn là người nhút nhát. Trước Hoàng Cúc cũng có biết bao cô gái phải lòng ông cũng như ông mến họ nhưng ông lại không một lần nào ngỏ lời, dần dần những cô gái ấy không thể đợi chờ thêm được nữa nên đã rời xa ông. Và Hoàng Cúc cũng không ngoại lệ. Khi đã chia xa thì cô gái ấy đã đi lấy chồng nhưng trong lòng vẫn coi ông là một người bạn. Biết tin ông bị bệnh cô gái ấy đã gửi cho ông một tấm bưu thiếp để hỏi thăm và trách móc sao không về chơi thôn Vĩ. Vậy là bây nhiêu nỗi nhớ niềm thương con người và cảnh vật Huế thương cứ thế ngập đến nhà thơ một cách tự nhiên.

Đoạn thơ thứ hai mang đến cho chúng ta biết bao nhiêu trăn trở suy nghĩ của mình về cuộc sống và số phận của nhà thơ tài năng này. Đây có thể coi là đoạn mang tâm trạng nhất, buồn nhất bi kịch nhất.

Mở đầu khổ thơ nhà thơ đã nhắc đến sự chia ly buồn bã. Bởi hiện tại làm cho nhà thơ luyến tiếc những gì đã qua và bốn bức tường cách ly kia chính là sự cản trở ngăn cách:

“Gió theo lối gió, mây đường mây”

Theo quy luật tự nhiên thì gió thổi mây bay vậy mà ở đây nhà thơ lại tách mây và gió ra, gió theo lối gió còn mây đi đường mây thể hiện sự chia ly cách trở. Nhà thơ sầu thảm buồn bã nên đã phá quy luật của tự nhiên để thể hiện sự khắc nghiệt của sự chia ly này. Gió và mây ở đây có phải chính là nhà thơ và người con gái Huế phúc hậu xinh đẹp ấy. Hay cũng chính là nhà thơ và cuộc đời này. Ngày nhà thơ ra đi khỏi Huế nhà thơ không biết được đó lại là ngày cuối cùng và vĩnh viễn không thể quay lại thăm con người cảnh vật nơi đây được nữa. Hàn Mạc Tử vẫn còn lưu luyến lắm cái cuộc đời này vậy mà số phận đưa đẩy làm sao để cho nhà thơ phải mắc một căn bệnh không thuốc chữa, để cho nó ngày ngày phá hoại cơ thể, nhà thơ phải chịu đau đớn. Chính vì thế mà Hàn Mạc Tử nhìn đâu cũng thấy chia ly cách xa. Nhà thơ có nỗi sầu vạn kỉ Cù Huy Cận cũng đã từng thể hiện sự chia ly qua hình ảnh:

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”

Cũng sầu đấy, chia ly đấy nhưng sao nó chưa trở thành bi kịch như câu thơ của hàn Mặc Tử được nỗi buồn không chỉ lan tỏa trên bầu trời nơi mà ánh mắt của nhà thơ hướng tới để tìm sự hy vọng mà nó còn lan tỏa khắp cảnh vật nơi đây. Bởi:

“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”

“ Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Dòng nước kia như được nhân hóa cũng biết buồn giống y như thi sĩ vậy, tâm trạng không tốt thì nhìn đâu cũng thấy không vui. Ta có thể cảm nhận được dòng nước kia lững lờ trôi chậm như thế nào để cho nỗi buồn của nhà thơ càng có chỗ chiếm đóng, càng dằn vặt nhà thơ nhiều hơn. Cơn gió kia cũng không mạnh mẽ, không tươi mát không mang lại cảm giác xao xuyến cho con người. Nó chỉ khẽ lay hoa bắp bên sông. Những từ “buồn thiu” , “khẽ” sao mà khiến cho người ta đau lòng đến thế.

Trước dòng sông, bên bờ hoa bắp ấy lại xuất hiện con thuyền, bến cũ, trăng mờ:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”

Đại từ ai vang lên không biết rằng đó là thuyền của Hoàng Cúc của người dân xứ Huế hay của ai. Hay đơn giản nhà thơ chỉ nói một cách bâng quơ như thế. Chính sự bâng quơ ấy lại thể hiện được tâm trạng của nhà thơ. Đó là một tâm trạng mơ hồ, khó tả, đau mà lại không đau, nhớ mà lại thương, vui khi nhận được tấm bưu thiếp của Hoàng Cúc nhưng lại không vui vì hiện thực này. Con thuyền ấy chắc cũng đi hết chặng đường của một ngày và nó đang nằm im trên bến đậu. Chợt nghĩ đến nhà thơ sống cũng được gần nửa đời người mà giờ cũng trong trạng thái nằm im một chỗ. Thế nhưng con thuyền kia chỉ nghỉ ngơi rồi sáng mai lại lên đường tiếp tục qua sông này sông khác còn Hàn Mạc Tử thì chỉ có một đời người vậy thôi. Ánh trăng như in từng nét lờ mờ trên dòng sông ấy. Một bức tranh nên thơ nên họa mà sao lại buồn man mác thế này!

Đặc biệt nhất, ấn tượng nhất, bi kịch nhất lại chính là câu thơ cuối cùng của khổ thơ này:

“Có chở trăng về kịp tối nay?”

Một câu hỏi tu từ vang lên mà không có lời giải đáp. Từ“kịp” chính là từ mang đầy bi kịch. Nhà thơ như lo lắng bối rối khi nghĩ không biết con thuyền kia có chở được ánh trăng về kịp tối nay. Chở ánh trăng hay chính là trở người con gái kia đến kịp với nhà thơ. Ông không tham lam gì cả mà ông chỉ lo sợ rằng cái lưỡi hái tử thần có thể cướp ông đi khỏi thế gian này bất cứ lúc nào và điều ông mong muốn chỉ là gặp lại người xưa một lần thôi.

Cảm nhận khổ 2 bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đem lại cho ta cảm xúc về tình cảm và cuộc đời của nhà thơ, Ai mà không thương xót cho số phận không may mắn ấy. Khi người ta sắp phải rời xa cuộc đời này và họ còn quá trẻ vẫn còn hoài bão, vẫn còn tình yêu dang dở thì họ sẽ hiểu nhà thơ đã đau khổ như thế nào.

Hàn Mặc Tử, một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong trào Thơ mới, thơ của ông luôn phảng phất nỗi buồn, nổi tiếng trong số các sáng tác của Hàn Mặc Tử là bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được in trong tập thơ “Đau thương”. Bài thơ là một bức tranh phong cảnh thôn Vĩ nhưng cũng là bức tranh tâm cảnh chứa đựng nhiều tâm trạng, cảm xúc và tâm sự của nhân vật trữ tình, đặc biệt trong khổ thơ thứ hai, vẻ đẹp thiên nhiên và tâm hồn con người đã được đan xen hòa quyện vào nhau.

Có thể nói ở khổ thơ này Hàn Mặc Tử đã hướng tâm trí của mình về dòng sông Hương, một hình ảnh đã gắn liền với thôn Vĩ Dạ, sông Hương hiện lên với vẻ êm đềm, trầm mặc, thơ mộng trữ tình, nhân vật trữ tình hay chính là tác giả nhìn con sông mà trong lòng chứa đựng nhiều suy tư, cảm xúc. Hai câu thơ đầu tác giả dùng bút pháp tả thực vẻ đẹp êm đềm, khoan thai của xứ Huế:

Mọi cảnh vật dường như chậm rãi: gió khẽ thổi, mây nước lững lờ trôi, hoa bắp khẽ đung đưa lay động, nhà thơ đã dùng biện pháp nhân hóa với cả gió, mây và nước, chúng như mang tâm trạng và cũng có sự liên kết, gắn kết với nhau: có gió mây mới bay, có gió thì dòng sông mới có sóng nước, chúng thường đi với nhau khiến cho cảnh vật trở nên sống động hơn, thế nhưng ở đây mây và gió lại xa rời nhau, gió và mây mỗi bên một đường một ngả tạo nên sự xa cách chia ly. Ít mây ít gió mà mây gió lại không có cùng nhau nên dòng sông cũng đành “buồn thiu”, cây cỏ cũng chỉ lay động rất nhẹ, cảnh vật trở nên thiếu sự sống, đây là một hình ảnh đẹp nhưng lại rất hiu quạnh, lặng lẽ và đượm buồn. Hai câu thơ sau khắc họa rõ tâm trạng của nhân vật trữ tình hay chính là nhà thơ:

Tuy mang tâm trạng u buồn, cô đơn nhưng trong tâm hồn của tác giả vẫn chan chứa tình yêu thiên nhiên và con người xứ Huế, dưới cái nhìn của tâm hồn nhà thơ, dòng sông đã không còn là một dòng sông bình thường có nước chảy mà đã trở thành một dòng “sông trăng”, dòng sông chứa đầy ánh sáng trăng vàng, hình ảnh đó khiến cho cảnh vật càng thêm huyền ảo, thơ mộng. Con thuyền có thực trên dòng sông cũng được chuyển đổi thành một con thuyền đậu trên bến sông trăng, thuyền chở trăng về một bến nào đó trong mộng tưởng của nhà thơ. Câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” cho thấy tác giả nôn nóng, chờ đợi, mong muốn con thuyền chở trăng về trong tối nay chứ không phải là một tối nào khác, phải chăng cái “tối nay” đó là một tối thật buồn, thật cô đơn, nhà thơ muốn được tâm sự với trăng, và cũng chỉ có trăng mới hiểu được nỗi lòng nhà thơ. Mong chờ trăng cũng cho thấy Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, ông cũng yêu cảnh vật và con người Huế nhưng hai thứ đó không thấu hiểu và không đáp lại được tình yêu của nhà thơ. Nhà thơ mong muốn gặp được trăng cũng giống như khao khát gặp được một tình yêu tha thiết, kín đáo, nhưng đó là sự chờ đợi khắc khoải, khôn nguôi.

Qua khổ thơ thứ hai bài thơ “Đây thôn vĩ dạ” của Hàn Mặc Tử chúng ta cảm nhận được những tâm tư của nhà thơ nhờ bức tranh thiên nhiên xứ Huế, tuy những tâm trạng đó chỉ là của riêng tác giả nhưng lại có sức ảnh hưởng, có sự cộng hưởng rộng rãi và bên lâu trong lòng người đọc. Chỉ một đoạn thơ bốn câu ngắn ngủi nhưng vẫn chứa đựng tất cả, thiên nhiên xứ Huế, tình yêu của tác giả với xứ Huế nói chung và Vĩ Dạ nói riêng.

….

Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Khổ Thơ 5 Và 6 Trong Bài Thơ Sóng (Sơ Đồ Tư Duy) 2 Dàn Ý &Amp; 15 Bài Văn Mẫu Lớp 12

Phân tích khổ 5, 6 bài Sóng giúp chúng ta cảm nhận được khúc tâm tình của thiếu nữ trăn trở, khát khao được yêu thương gắn bó. Tình yêu luôn luôn quan trọng với cuộc sống của mỗi con người. Và tình yêu của tuổi trẻ là tình yêu mãnh liệt và cảm xúc trong sáng nhất. Vậy sau đây là TOP 15 mẫu phân tích Sóng của Xuân Quỳnh, mời các bạn cùng đón đọc.

Dàn ý số 1

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Xuân Quỳnh, bài thơ Sóng: Xuân Quỳnh là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nổi bật trong thơ Xuân Quỳnh là chùm thơ viết về tình yêu. Trong đó bạn đọc yêu thơ chị chắc chắn sẽ biết đến bài thơ “Sóng”.

– Dẫn dắt giới thiệu nội dung cần phân tích: Khi nói về nét truyền thống của người con gái trong tình yêu, khổ thơ năm, sáu và bảy đã làm tròn nhiệm vụ của mình.

II. Thân bài

1. Khổ 5: Nỗi nhớ trong tình yêu

– Nỗi nhớ là tình cảm chủ đạo, luôn thường trực trong trái tim những người đang yêu.

Nỗi nhớ bao trùm cả không gian, thời gian: “dưới lòng sâu… trên mặt nước…”, “ngày đêm không ngủ được”.

Tồn tại trong ý thức và đi vào cả tiềm thức: “Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ còn thức”.

Nghệ thuật nhân hóa, hóa thân vào sóng để “em” tự bộc lộ nỗi nhớ da diết, cháy bỏng của mình.

2. Khổ 6: Sự thủy chung trong tình yêu

– Lòng thủy chung, son sắt của người con gái trong tình yêu:

“Dẫu xuôi về phương Bắc/Dẫu ngược về phương Nam”: ngược với cách nói thông thương.

“Nơi nào em cũng nghĩ/Hướng về anh – một phương”: Khẳng định lòng thủy chung son sắc trong tình yêu.

III. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của khổ thơ 5, 6. Đọc “Sóng” của Xuân Quỳnh, người đọc dường như thêm trân trọng tình yêu. Và dù người phụ nữ của Xuân Quỳnh trong tình yêu có mạnh mẽ đến đâu, họ vẫn giữ gìn được những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ xưa.

Dàn ý số 2

1. Mở bài

– Giới thiệu qua tác giả Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mĩ.

– Thơ Xuân Quỳnh là một hồn thơ rất đỗi trẻ trung, tươi mát, đầy nữ tính. Đặc điểm đặc sắc trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là: Vừa khát khao một tình yêu lý tưởng, vừa hướng tới hạnh phúc thiết thực của đời thường. Tất cả những điều ấy được thể hiện trong một hồn thơ giản dị, tự nhiên và hồn nhiên. Có thể nói, cùng với “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, bài thơ “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ Xuân Quỳnh.

2. Thân bài

– Hình tượng trung tâm và nổi trội trong bài thơ là hình tượng “Sóng”, bao trùm cả bài thơ là hình tượng: Sóng.

Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ trẻ cũng như mọi sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả.

“Sóng” là một trong những hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của Xuân Quỳnh. “Sóng” và “em”, vừa hòa hợp là một, lại vừa phân đôi để soi chiếu, cộng hưởng. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái của lòng mình.

– Hình tượng sóng đã gợi ra trong cả bài thơ bằng âm điệu: Bài thơ có một âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng, lúc sôi nổi trào dâng, lúc thì thầm sâu lắng, gợi âm hưởng của những đợt sóng miên man, vô tận. Âm hưởng ấy được tạo dựng nên bởi thể thơ năm chữ, với những câu thơ liền mạch, từng không ngắt nhịp, các khổ thơ được gắn kết với nhau bằng cách nối vần (“Khi nào ta yêu nhau”… “Con sóng dưới lòng sâu”).

– Khổ 5: Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ. Tâm hồn đang yêu ở đây luôn soi vào sóng để diễn tả cái sâu sắc, bao la của nỗi nhớ trong lòng mình, nó choán đầy cả tầng sâu và bề rộng, nó chiếm lĩnh trọn cả thời gian, cả ngày lẫn đêm:

Con sóng dưới lòng sâu

– Khổ 6: Tình yêu rất sôi nổi, nồng nhiệt của Xuân Quỳnh cũng lại là một tình yêu chân thành và trong sáng, một tình yêu đòi hỏi sự gắn bó thủy chung. Như mọi con sóng dù “muôn vời cách trở” nhưng vẫn hướng vào bờ và nhất định tới bờ, thì lòng em cũng thế:

Hướng về anh – một phương

3. Kết bài

– Khẳng định hình tượng sóng đã làm cho bài thơ thành công.

– Tình yêu luôn luôn quan trọng với cuộc sống của mỗi con người, mỗi chúng ta ai cũng có quyền yêu và được yêu. Và tình yêu của tuổi trẻ là tình yêu mãnh liệt và cảm xúc trong sáng nhất.

Nhắc đến thơ tình không thể không nhắc đến nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, một trong những nhà thơ nổi bật của nền thơ hiện đại Việt Nam. Xuân Quỳnh viết về tình yêu rất thực, thơ bà da diết, dạt dào nhưng cũng đầy quyết liệt, mạnh mẽ. Vào những năm 1967, khi mà đất nước ta đang trong những ngày chống giặc cứu nước.

Bên cạnh những bản hùng ca chiến trận ca ngợi tinh thần cách mạng của các chiến sĩ thì còn có những bản tình ca của đời sống, Xuân Quỳnh đã viết nên bài thơ “Sóng” mang nét riêng giữa muôn vàn vẻ đẹp của thơ ca vào khoảng thời gian này.

“Sóng” đã thể hiện thật sinh động những vẻ đẹp trong tâm hồn của nữ thi sĩ đồng thời cho thấy được tài năng trong ngòi bút của Xuân Quỳnh khi bộc lộ những cảm xúc tình cảm nội tâm đầy tinh tế qua thơ.

Thi phẩm “Sóng” đã đưa độc giả đến với những chân trời của những cảm xúc vui buồn, lắng lo, hạnh phúc và cả chân trời của sự thủy chung trong tình yêu. Những nguồn xúc cảm da diết, đậm sâu trong tình yêu được thể hiện rõ nhất của khổ 5, 6, 7 của bài thơ.

Xuân Quỳnh đã rất tinh tế dùng hình ảnh sóng để chỉ em- người con gái đang yêu. Em cũng như con sóng ngoài biển cả dạt dào, dù là dưới đáy sâu nơi đại dương rộng lớn hay chỉ thoáng qua lênh đênh trên mặt biển thì vẫn luôn nhớ về anh- người mà em yêu.

Nỗi nhớ ấy đã vượt cả không gian rộng lớn, biển kia có sâu rộng cũng không đo được bằng nỗi nhớ nơi em. Sóng biển cũng chính là những cơn sóng lòng đang cuộn trào dữ dội trong em, nỗi nhớ về người thương thật mạnh mẽ biết bao.

Tiếng “Ôi” cất lên nghe thật tha thiết, nỗi nhớ trào dâng nơi sâu thẳm trái tim người con gái. Con sóng ngoài kia vẫn cứ thế theo từng đợt gió, dù êm đềm hay dữ dội ngày đêm vẫn vỗ tới bờ, vẫn tìm đến bờ thì em cũng như thế, cũng nhớ anh ngày đêm, mong được đến bên anh.

Nỗi nhớ khôn nguôi ấy luôn thường trực trong tâm trí, khiến “em” không khỏi thao thức, trăn trở “không ngủ được”, ngay cả trong giấc mơ vẫn là bóng hình của người thương trong đó.

Nỗi nhớ vượt lên cả sự chảy trôi của thời gian, của ngày đêm yêu, của tháng năm yêu. Tình cảm nơi tâm hồn Xuân Quỳnh thật chân thành, thắm thiết, sâu sắc và mãnh liệt biết bao.

Nỗi nhớ ấy tựa như nỗi nhớ của người con gái xưa:

Tình yêu thật nồng cháy, dẫu cho có khoảng cách xa xôi, có mỗi người mỗi hướng thì lòng thủy chung, son sắt vẫn luôn cháy mãi nơi đáy lòng. Dù người tình có ở nơi đâu, có ở chốn phương Bắc lạnh giá hay chốn trời Nam xa xôi thì cũng không làm em nản lòng mà thôi nhớ, thôi nghĩ về anh.

Khoảng cách có xa gì đâu khi tim luôn nhìn về một hướng- hướng anh- phương hướng tình yêu chúng mình. Khoảng cách địa lý không thắng nổi sự yêu thương của tình yêu mãnh liệt, khi trái tim hai con người đã gắn kết như sợi tơ hồng đã se duyên, khi người kia đã đặt trọn vẹn niềm tin cho đối phương của mình.

Điệp từ “dẫu” kết hợp với hai cụm động từ “ngược về phương Nam” ,” xuôi về phương Bắc” như một cách thể hiện những thách thức, trắc trở trong tình yêu và sự chiến thắng khó khăn ấy bằng tình yêu mãnh liệt.

Lời nguyện thề nơi nào em cũng hướng về anh thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao. Là một người con gái, nhưng Xuân Quỳnh không hề đứng đó là đợi chờ tình yêu, nhà thơ luôn thể hiện sự chủ động của mình.

Với nhà thơ, tình yêu luôn phải rõ ràng và bình đẳng, đã yêu là phải sống thật trọn vẹn, hết lòng với tình yêu, bởi thế mà những vần thơ không chỉ mang nét dễ thương, đáng yêu mà còn đầy rắn rỏi, quyết liệt và dứt khoát.

Trong cuộc sống, mỗi công việc đều có những khó khăn và áp lực riêng cũng như trong tình yêu vậy, mỗi mối tình đều có những trắc trở, thử thách nhất định. Song, nếu cùng nhau cố gắng, cùng nhau vun đắp, cùng hiểu và bao dung cho nhau thì rồi tình yêu cũng sẽ kết thành trái ngọt, ngày mà tình yêu được đến đích cuối cùng của bến bờ hạnh phúc:

Sóng biển ngoài đại dương bao la kia cũng vượt qua bao giông tố, gió mưa mới vỗ tới bờ cát bình yên. Cũng như tình yêu anh và em cũng phải cùng nhau cố gắng, nắm tay nhau bước qua những gian truân, cám dỗ và sóng gió của cuộc đời mới tới ngày trọn vẹn. Ca dao xưa có câu:

Tình yêu là sức mạnh hay chính tình yêu đã mang lại sức mạnh lớn lao như thế.

Ba khổ thơ tuy không quá dài nhưng cũng đủ để ta thấy được một tâm hồn yêu hết mình, sống hết mình với tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh.

Tiếng thơ ấy cũng chính là nỗi lòng của bao người đang yêu và được yêu, đặc biệt là những thanh niên trẻ tuổi giàu khát vọng yêu. “Sóng” đích thực đã chạm đến tất cả trái tim của người đọc bằng những cảm xúc tự nhiên nhất, khiến họ rung cảm và thổn thức với từng thanh âm, giai điệu của bài thơ.

Tình yêu thường đi liền với nỗi nhớ, trong muôn vàn hình tượng thì sóng được xem là biểu tượng cho tình yêu thiêng liêng và mãnh liệt. Chính vì lẽ đó, khi Xuân Quỳnh nhìn vào sóng, bà đã nghĩ tình yêu. Tình yêu đó đã được Xuân Quỳnh gói gọn vào tác phẩm “ Sóng”. Bài thơ chính là những cảm xúc chân thật nhất của người con gái khi yêu, vừa nồng nhiệt, khao khát và cả nhớ nhung, tin tưởng. Hai mạch cảm xúc này được thể hiện rõ nét qua khổ 5 6 của bài thơ:

Phân tích khổ 5 6 bài Sóng để thấy được những sắc thái chân thực của tình yêu

“Sóng” in trong tập “Hoa dọc chiến hào” ra đời sau một chuyến đi xa của nhà thơ. Bài thơ có 8 khổ, mỗi khổ đều được nhà thơ gửi gắm từng suy nghĩ của mình về tình yêu thông qua hình ảnh những con sóng. Sóng là hình tượng được tác giả sử dụng xuyên suốt bài thơ, song hành với hình tượng sóng là hình tượng “em”. Em là sóng và sóng là em.

Trong khổ thơ đầu tiên, hình ảnh sóng được khắc họa đi liền với nỗi nhớ. Thông qua phép nhân hóa, ta như thấy sóng cũng là một thực thể có tình yêu, có cả nỗi nhớ.

Ở 3 câu thơ đầu, từ “sóng” được nhà thơ lặp lại liên tiếp ba lần như hình ảnh sóng trào từng lớp từng lớn trên mặt biển. Từng nhịp sóng chính là từng nhịp nhớ thương khôn nguôi, lớp này chồng lên lớp khác, sôi sục, không có giới hạn. Trong tình yêu cũng vậy, nhớ nhung là cảm xúc luôn hiện hữu, dào dạt, hai người yêu nhau sẽ không bao giờ ngừng nhớ đến nhau. Sự đối lập giữa “ngày” và “đêm”, “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước” thể hiện một nỗi nhớ xuyên suốt mọi không gian, thời gian. Đây chính là trái tim của người con gái khi yêu, luôn bao la rộng lớn như đại dương đong đầy sóng biển, đong đầy tình yêu. Là sự nhớ nhung không lúc nào nguôi như sóng biển không lúc nào thôi vỗ vào bờ.

Sau khi mượn hình ảnh sóng để nói về nỗi nhớ, nhà thơ đã không kìm nén được mà thổ lộ nỗi nhớ trong tình yêu thành lời qua 2 câu thơ:

Nỗi nhớ giờ đây không còn ở trong phạm vi không gian và thời gian nữa mà xuyên qua cả đại dương rộng lớn, vượt ra ngoài ranh giới giữa thực tại và mong mơ. Không chỉ nằm ở ý thức, nỗi nhớ còn ăn sâu vào trong tiềm thức, đi vào trong giấc mơ của người con gái. Nỗi nhớ trở nên da diết, sôi trào như những con sóng khi tràn bờ. Mạch của thơ chuyển từ câu 4 sang câu 6 như để thể hiện nỗi nhớ tận cùng. Cách phá vỡ quy tắc thơ của tác giả nhằm ẩn ý trong tình yêu sẽ không có giới hạn nào cả, khi yêu, con người ta có thể phá vỡ tất cả những rào cản. Nỗi nhớ của những người khi yêu sẽ không bao giờ tắt.

Phân tích khổ 5 6 bài Sóng để thấy tình yêu không chỉ có nỗi nhớ mà còn cần phải có sự thủy chung. Xuân Quỳnh đã gửi gắm lời nhắn nhủ này qua hình tượng sóng ở khổ thơ thứ 6:

Nhà thơ đã so sánh phương bắc, phương nam với anh, như để thể hiện rằng, dù đi đến phương nào, tình yêu của em cũng sẽ chỉ dành cho anh. Dù cho không gian có mở bao nhiêu phương, bao nhiêu hướng, thì tình yêu cũng chỉ có một phương duy nhất. Bản chất thực sự của tình yêu đã được Xuân Quỳnh khẳng định qua 2 chữ “duy nhất”.

Tình yêu là sự chung thủy, tình yêu là duy nhất, dù cho có khó khăn bao nhiêu, “xuôi” “ngược” bao nhiêu. Chỉ có những ai có trái tim chân thành, lòng thủy chung son sắc thì mới vượt qua được như khó khăn, gập ghềnh trong tình yêu. Từ đó mới nuôi dưỡng được tình yêu một cách toàn vẹn. Sự thủy chung chỉ tồn tại khi tình yêu chân thành, không quan ngại gian khổ. Qua hết đoạn thơ thứ 2, ta mới thấy được những tâm tình mà Xuân Quỳnh muốn gửi gắm: sóng chỉ hướng vào bờ như em luôn hướng về anh, sự thủy chung chính là động lực giúp em vượt muôn trùng sóng gió để đến được với hạnh phúc.

Phân tích khổ 5 6 bài Sóng để thấy được những khía cạnh sắc thái của tình yêu đó là nỗi nhớ và sự thủy chung khi yêu. Những ai đang yêu khi đọc hai khổ thơ này chắc chắn sẽ thấy mình ở trong đó, cũng sẽ nhớ và ước mong sẽ chung thủy để luôn gắn bó bền chặt với người mình yêu. Còn những người chưa yêu sẽ nhận được bài học sâu sắc nếu tình yêu không có nỗi nhớ, không có sự thủy chung thì mãi mãi không thể đi được đến bên bờ hạnh phúc.

Bên cạnh đó, qua bài thơ Sóng này chúng ta sẽ cảm nhận được những cung bậc cảm xúc tinh tế và mãnh liệt trong tình yêu của người phụ nữ. Từ đó thấu hiểu được phần nào nỗi lòng mà tác giả Xuân Quỳnh muốn gửi gắm qua lời thơ.

Xuân Quỳnh là một nữ thi sĩ có phong cách nghệ thuật độc đáo. Những sáng tác của nhà thơ vừa mang nét mạnh mẽ, táo bạo lại vừa đằm thắm, thiết tha. Xuân Quỳnh đã đóng góp cho nền thơ Việt Nam rất nhiều tập thơ hay và ý nghĩa. Trong đó phải kể đến các tập thơ: Hoa dọc chiến hào (1968), Sân ga chiều em đi (1984)… Bài thơ “Sóng” là một trong những bài thơ hay và đặc sắc nhất.

“Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác vào năm 1967 trong những ngày kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt. Bài thơ nhằm bày tỏ nỗi nhớ nhung và khát vọng trong tình yêu của người phụ nữ. Đó cũng là những tình cảm đẹp đẽ nhằm trao tặng cho người mình yêu. Điều đó được thể hiện rõ ràng nhất trong hai khổ thơ năm và sáu của bài thơ:

Nói về tình yêu có rất nhiều nhà thơ lấy những hình ảnh khác nhau để biểu trưng cho thứ tình cảm ấy và Xuân Quỳnh đã lựa chọn hình tượng “sóng” để biểu thị cho tình yêu xuyên suốt trong bài thơ. Sóng là hiện thân cho tình yêu, cho người con gái đang yêu. Sóng cũng mang đến nhiều cung bậc cảm xúc cho người đọc. Hình tượng sóng trong hiện thực mà chúng ta thường thấy nó cũng như vậy, có rất nhiều những trạng thái khác nhau, thậm chí là đối ngược nhau như: “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ”. Nhờ vào những liên tưởng về hình tượng con sóng mà chúng ta thấy được những đặc trưng của tình yêu đôi lứa mà được biểu hiện chủ yếu bằng nỗi nhớ:

Bằng việc lặp lại hai lần từ “con sóng” và đi kèm với nó là những vị trí khác nhau. “Sóng trên mặt nước” là con sóng ở bề nổi bên trên mà người ta có thể dễ dàng thấy được còn sóng dưới lòng sâu là những con sống ngầm dưới mặt nước ta khó lòng có thể biết được. Như ta đã biết sóng là biểu trưng cho tình yêu, cho nỗi nhớ. Trong tình yêu, khi người ta xa cách nhau thường đem lại sự nhớ nhung tha thiết. Có những người đem nỗi nhớ nhung đó giấu trong lòng, không thổ lộ với ai và cũng có những người họ bày tỏ, biểu hiện nỗi nhớ đó ra bên ngoài. Chúng ta có thể dễ dàng thấy được sóng là một hình ảnh hàm súc, gợi tả, gợi cảm và cũng là nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Xuân Quỳnh.

Sóng là hình ảnh biểu trưng trạng thái bất ổn định của tình yêu. Xuân Quỳnh đã bày tỏ nỗi nhớ trong tình yêu bằng hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng “Ôi con sóng nhớ bờ”, “sóng” còn là biểu tượng cho người con gái trong tình yêu khi nhớ về người con trai đó là “bờ”. “Sóng” và “bờ” là hai hình ảnh sóng đôi nhau ngoài đời thực, con “sóng” dù có đi xa tới mấy cũng trở về với “bờ”. Khi rời xa nhau thì sự nhớ nhung lại trỗi dậy mạnh mẽ đến nỗi “Ngày đêm không ngủ được”. Nỗi nhớ thường trực biến thành sự thao thức đến nỗi không ngủ. Đến đây ta có thể thấy được sự quen thuộc mà những ai đã và đang yêu đều từng trải qua. Không chỉ sử dụng hình ảnh ẩn dụ mà Xuân Quỳnh còn biểu lộ trực tiếp:

Từ “sóng” với “bờ” đã chuyển sang thành “anh” với “em”. Anh với em giống với con sóng và bờ kia, cũng chứa đựng những cung bậc cảm xúc như vậy đó là nỗi nhớ trong em cũng không thua kém gì với sóng. Nếu như “sóng” ngày đêm không ngủ, thao thức thì em ở một cấp độ cao hơn đó là thức ở chính trong giấc mơ của mình. Ý nói rằng dù thức hay ngủ thì nỗi nhớ vẫn xâm chiếm. Nỗi nhớ ấy còn được nhấn mạnh hơn nữa trong bốn câu tiếp theo:

Tác giả đã sử dụng phép đối lập giữa “Bắc và Nam”, giữa “xuôi và ngược” để thể hiện nỗi nhớ và tình yêu tha thiết của cô gái với chàng trai. Thông thường người ta thường nói “xuôi Nam”, “ngược Bắc” nhưng Xuân Quỳnh đã nói ngược lại qua đó cho thấy tình yêu không theo một quy luật chủ thể, có thể đi ngược lại với thực tế. Có thể nói dù ở bất cứ đâu, dù có muôn vàn những khó khăn, cách trở thì người con gái ấy vẫn thủy chung, son sắt một lòng với người mình yêu thương.

Đoạn thơ thể hiện những tâm tình xao xuyến, trăn trở đi kèm với những nồng nhiệt say mê của người con gái trong tình yêu. Qua đó cũng thể hiện nỗi khát vọng tình yêu, khát khao được yêu thương được nếm trải những cung bậc tình yêu trong cuộc sống của nhà thơ.

“Sóng” của Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là một bài thơ tình rất đẹp. Vẻ đẹp của một tâm hồn khao khát yêu thương trong mối tình đầu rạo rực của thiếu nữ. Vẻ đẹp của nhạc; nhạc của lòng cũng là nhạc của thơ, nhạc của sóng reo, sóng vỗ. Vẻ đẹp của men say tình ái được cất lên thành lời ca ngọt ngào, tha thiết biết bao:

Hình tượng “sóng” đầy thi vị. Bất cứ ở đâu, dù ở “dưới lòng sâu” hay ở “trên mặt nước”, thì sóng vẫn “nhớ bờ”. Dù cả trong ngày và trong đêm dài vắng vẻ, sóng vẫn “không ngủ được”. Các động từ – vị ngữ: “nhớ bờ”, “không ngủ được” đã được nữ sĩ dùng rất đắt, tinh tế và biểu cảm, đem đến cho ta bao cảm xúc đẹp về tình yêu:

Nỗi nhớ ấy rất mãnh liệt. Dù ở không gian nào “dưới lòng sâu hay “trên mặt nước”, dù ở thời gian nào “ngày” cũng như “đêm”, sóng vẫn “nhớ”, sóng vẫn bồn chồn, thao thức “không ngủ được”. Lấy không gian và thời gian để “đo” nỗi nhớ của em, tác giả đã thể hiện một cách sâu sắc một tâm hồn luôn luôn trăn trở, khao khát được yêu thương. Sóng đã được nhân hóa mang hồn em và tình em. Từ cảm “ôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một tiếng lòng chấn động rung lên: “Ôi con sóng nhớ bờ…”.

Từ hiện tượng sóng vỗ xôn xao suốt đêm ngày trên đại dương, nữ sĩ liên tưởng đến tình cảm của thiếu nữ:

“Cả trong mơ” và cả khi “còn thức”, trong thực và trong mộng, em vẫn “nhớ đến anh”. Hình bóng chàng trai – người tình đã choáng ngợp tâm hồn cô gái. Yêu là sự hòa nhập hai tâm hồn. Sóng trên đại dương là biểu tượng cho sự sống muôn đời, cũng như tình yêu của “em” đối với “anh” mãi mãi là nỗi khao khát nhớ thương, mong đợi, trong không gian, trong thời gian, và “cả trong mơ còn thức”. Xuân Quỳnh đã có một cách nói mới mẻ, một cách diễn đạt độc đáo khi thể hiện nỗi nhớ trong tình yêu, của “em”. Ta hãy trở về với ca dao:

Hay:

Hay:

Qua đó, ta mới cảm thấy cái ý vị đậm đà của ngôn từ, cái cảm xúc nồng cháy của tâm hồn thiếu nữ: “Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”.

Tình yêu luôn luôn đối diện với bao thử thách, trong đó có sự cách trở về thời gian và không gian. Sự cách trở ấy đã làm cho tâm hồn thiếu nữ, tâm hồn “em” thêm đẹp, đinh ninh lời thề nguyền “Trăm năm một chữ đồng đến xương” (Truyện Kiều). Lứa đôi ngày xưa, với sức mạnh của tình yêu, họ quyết tâm vượt qua mọi thử thách “Tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua” để được sống dưới một mái ấm hạnh phúc đời đời bên nhau. Với “em” thì dù đi đâu, dù có lên thác xuống ghềnh, “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược phương Nam” trong bom đạn thời chiến tranh chống Mỹ (1967), lòng em vẫn “Hướng về anh một phương”, hướng về “anh”, người mà “em” thương nhớ, đợi chờ:

Các điệp ngữ: “dẫu xuôi về”, “dẫu ngược về”, “phương” (phương Bắc, phương Nam, một phương) đã liên kết với các từ ngữ: “Em cũng nghĩ”, “hướng về anh” làm cho niềm tin đợi chờ trong tình yêu được khẳng định một cách mạnh mẽ. Chữ “một” trong câu thơ “hướng về anh một phương” đã thể hiện một tình yêu sắt son thủy chung.

“Yêu là chết ở trong lòng một ít” – Không! Với Xuân Quỳnh, thì tình yêu là “khát vọng, đã làm cho thiếu nữ hồn hậu hơn, cao quý hơn. Bởi lẽ:

(Lạ chưa?, Tố Hữu)

Xuân Quỳnh thuộc một số những nhà thơ lớp đầu tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước. Nhận xét về ngôn ngữ thơ của nữ sĩ, giáo sư Chu Văn Sơn cho rằng: “Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương thân trong nắng nôi giông bão của cuộc đời… Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa khắc nghiệt và yên lành với những biểu hiện sống động và biến hóa không ngừng của chúng”. Và “Sóng” là một bài thơ hay, đã làm rõ những điểm sáng đó trong phong cách thơ Xuân Quỳnh, nhất là hai khổ thơ năm và sáu.

Dù không thể cắt nghĩa được cội nguồn của tình yêu nhưng Xuân Quỳnh đã phát hiện ra một tín hiệu cơ bản của tình yêu, nhất là khi những tâm hồn yêu phải xa cách: Tình yêu luôn đồng hành cùng nỗi nhớ, và tương tư là căn bệnh phổ biến của tất cả những người đang yêu. Có nỗi nhớ tha thiết mà lặng thầm trong ca dao:

Có nỗi nhớ được đo bằng không gian:

Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời

Có nỗi nhớ được đo bằng thời gian:

Ở đây để diễn tả những cảm xúc nhung nhớ trong tình yêu, Xuân Quỳnh tiếp tục mượn hình tượng sóng:

Hình ảnh con sóng được điệp lại ba lần trong bốn dòng thơ giống nhau như những đợt sóng gối lên nhau, hối hả vươn tới bờ, như đoạn điệp khúc da diết của một bản tình ca. Nghệ thuật đối đã đặt sóng vào những không gian, thời gian khác nhau. Dù trên mặt nước hay dưới lòng sâu, dù ngày hay đêm, con sóng luôn mang trong mình nỗi nhớ bờ da diết. Đó cũng là ẩn dụ về những đợt sóng lòng đang trào dâng trong trái tim người phụ nữ đang yêu, sóng nhớ bờ như em nhớ anh “ngày đêm không ngủ được”, một nỗi nhớ bao trùm cả không gian, đầy ắp theo thời gian, một nỗi nhớ cồn cào da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi, cứ cuồn cuộn, dạt dào như những con sóng triền miên vô hồi vô hạn.

Và phải chăng, những rung cảm mãnh liệt của trái tim đã buộc lời thơ phải dài thêm ra để diễn tả cho thỏa cái ngút ngàn của nỗi nhớ:

Đây là khổ thơ đặc biệt nhất trong bài thơ bởi nó kéo dài thêm hai dòng thơ. Cảm xúc nhớ thương trào dâng mãnh liệt đã làm ý thơ bị xô đẩy, khuôn khổ thơ phải lung lay. Sự xuất hiện của khổ thơ đặc biệt này đã tạo nên một liên tưởng độc đáo: cả bài thơ là con sóng lớn, khổ thứ năm là đỉnh sóng và cũng là đỉnh điểm của cảm xúc.

Mượn sóng để diễn tả nỗi nhớ đã là sâu sắc và mãnh liệt lắm nhưng với Xuân Quỳnh, điều đó dường như là chưa đủ, tác giả đã để cho nhân vật trữ tình trực tiếp đứng ra bộc bạch nỗi lòng mình. Nếu nỗi sóng nhớ bờ còn phân biệt ngày đêm thì nỗi em nhớ anh đã phá vỡ mọi giới hạn thời gian. Nỗi nhớ không chỉ tồn tại trong ý thức mà còn trong cả tiềm thức, thậm chí có cảm giác nếu còn có một cõi nào nữa có thể tới được, Xuân Quỳnh sẽ tìm tới để được sống trọn vẹn với tình yêu. Ý thơ Xuân Quỳnh ở đây có gì thật gần với ca dao:

Tác giả dân gian mượn “khăn, đèn, mắt” để diễn tả nỗi nhớ nhung khắc khoải của người con gái đang yêu, và cuối cùng không cần một ẩn dụ, hoán dụ nào nữa, chính em đã trực tiếp bộc bạch nỗi lo âu tình duyên hạnh phúc. Như vậy tứ thơ của Xuân Quỳnh không mới nhưng niềm khát khao phá vỡ mọi giới hạn để mở rộng chiều kích, biên độ của cuộc sống và tình yêu thì thực sự là táo bạo hiện đại.

Quan niệm tình yêu của Xuân Quỳnh rất mới mẻ nhưng vẫn có gốc rễ rất sâu của đạo lý truyền thống:

Dưới hình thức nói ngược, những câu thơ trên như thoáng qua một chút thách thức. Trong Tiếng Việt, thông thường người ta nói “ngược về phương Bắc, xuôi về phương Nam”, Xuân Quỳnh nói ngược lại với hàm ý sâu xa: Dù cuộc đời có đảo điên, dù vật đổi sao rời, dù xuôi hóa ngược, dù cho ở đâu, em như kim chỉ nam, em luôn hướng về anh – “một phương”. Xuân Quỳnh rất hiếm khi quyết liệt trong thơ. Đây có lẽ là lần nhà thơ tỏ ra quyết liệt nhất là để bảo vệ tình yêu chung thủy. Nữ sĩ luôn biết vun đắp chắt chiu để bảo vệ hạnh phúc đời thường. Nhà thơ chưa bao giờ kiêu sa để triết lý về tình yêu.

Tình yêu vốn là đề tài muôn thuở của thơ ca. Trong tình yêu, con người luôn có nhu cầu được chia sẻ, giãi bày. Có thể nói, trong bài thơ này, với “Sóng”, Xuân Quỳnh đã tìm thấy một hình tượng nghệ thuật độc đáo, phù hợp để nói lên một cách đầy đủ và chân thật những biểu hiện đa dạng trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu.

Tâm hồn thơ nhìn cuộc đời cũng bằng chất thơ. Nhìn mùa xuân thấy tuổi trẻ, trông ánh trăng mà nhớ về cố hương, như Xuân Quỳnh nhìn ngọn sóng đã nghĩ về tình yêu. Những nghĩ suy ấy được đúc kết trong tác phẩm “Sóng” – một tiếng yêu nhẹ mà nồng. Bài thơ là những xúc cảm khi yêu của người con gái, mà nhớ nhung và tin tưởng nằm trong số đó. Hai cảm xúc này được thể hiện rất rõ thông qua hai khổ thơ:

“Sóng” là thành quả sau chuyến đi vào Diêm Điền của nhà thơ, được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ gồm tám khổ, mỗi khổ lại là một nét suy nghĩ của tác giả về tình yêu khi đứng trước những con sóng. Những lớp sóng nước chính là cảm hứng cho tác giả và cũng là hình tượng chính trong bài thơ, song hành với đó là hình tượng “em”. Hai khổ thơ trên là khổ năm và khổ sáu.

Trong hai đoạn thơ, hình ảnh sóng hiện lên gắn liền với những sắc thái của tình yêu mà khổ đầu là sóng cùng nỗi nhớ. Phép nhân hóa đã biến sóng thành một chủ thể cũng có tình yêu:

Từ “sóng” được điệp lại ba lần trong ba câu thơ liên tiếp đã tạo nên hình ảnh những con sóng trào lên từng lớp, từng lớp. Nhịp sóng trào cũng chính là nhịp nhớ thương trong trái tim người phụ nữ, cứ hết lớp này đến lớp nọ, chẳng bao giờ hết sục sôi, chẳng biết đâu là giới hạn. Giống như trong tình yêu, nhớ luôn là xúc cảm khôn nguôi và dào dạt, một nhịp yêu là một nhịp nhớ. Sự tương phản giữa “ngày” và “đêm”, “dưới lòng sâu” và “trên mặt nước” gợi ra một nỗi nhớ chiếm kích mọi chiều không gian và bao trùm lên toàn thời gian. Những câu thơ gợi ra trái tim người con gái đang yêu tựa như một đại dương rộng lớn đong đầy dòng nước tình yêu và không lúc nào yên lặng bởi những con sóng của nhớ nhung.

Nhà thơ mượn sóng để gợi nỗi nhớ trong tình yêu, nhưng có lẽ nói như thế cũng không thể hết được nên nỗi nhớ đã bật ra thành lời thổ lộ trực tiếp:

Hai câu thơ giống như một con sóng, xuyên qua cả đại dương bao la, xuyên qua cả cõi thực và cõi mộng. Nỗi nhớ không chỉ là hiện diện của ý thức mà còn lắng sâu vào tâm thức để hiện ra trong những giấc mơ. Cái dạt dào, sôi trào, da diết của nỗi nhớ dường như đã khiến cho nỗi nhớ thương tràn bờ. Dung lượng câu thơ chuyển từ bốn thành sáu câu như để đủ dung lượng để diễn tả nỗi nhớ ấy cho đến tận cùng. Sự phá vỡ quy tắc thơ ở đây cũng như ngầm ám chỉ tình yêu vốn dĩ là sự phá cách và không có giới hạn như thế, trái tim khi yêu thì có thể phá vỡ mọi rào cản và nỗi nhớ thì cũng không bao giờ thôi sục sôi.

Đoạn thơ tiếp theo, hình tượng sóng gắn liền với một sắc thái khác của tình yêu, đó là sự thủy chung:

Nhà thơ đã đặt phương anh bên cạnh phương bắc, phương nam như một phép so sánh hai chiều kích của không gian và của tình yêu. Nếu không gian địa lý mở ra với bốn phương tám hướng thì trong tình yêu chỉ có duy nhất một phương anh. Hai chữ “một phương” đã khẳng định sự duy nhất và bản chất chân chính của tình yêu. Cặp từ đối “ngược” “xuôi” chính là sự hiện hữu của những khó khăn trong tình yêu. Đó là thử thách mà con người phải trải qua, là hành trình lên thác xuống ghềnh để theo đuổi và nuôi dưỡng tình yêu. Chỉ có trái tim yêu chân thành thì mới chẳng quản lên thác xuống đèo như thế, chỉ có sự chân thành, yêu chân thực mới hiểu được thủy chung là bản chất của tình yêu. Đoạn thơ cũng thể hiện những khám phá của Xuân Quỳnh về tình yêu: nếu sóng chỉ hướng đến bờ thì em cũng chỉ hướng về anh, lòng chung thủy sẽ dẫn em vượt qua muôn nghìn trùng sóng bể để đến bến bờ tình yêu và hạnh phúc.

Hai khổ thơ là những chiêm nghiệm, khám phá và đúc kết của nhà thơ về tình yêu: yêu là nhớ, yêu là thủy chung. Những người đang yêu có lẽ thấy chính mình cũng là “em”, cũng bồi hồi nhớ người yêu và một lòng mong ước bền chặt gắn bó. Những người chưa yêu có lẽ thấy khát khao cũng được trải qua những sắc thái chẳng gì có thể mang lại được ấy. Đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã khơi dậy sắc thái yêu trong lòng người đọc như thế đấy.

Đề tài tình yêu là một đề tài đã khiến cho rất nhiều thế hệ nhà văn, nhà thơ tốn nhiều giấy mực. Viết về tình yêu, thì điều đặc biệt là viết về nỗi nhớ, sự thủy chung trong tình yêu, nhưng có lẽ một nhà thơ nữ viết về tình yêu của chính những người phụ nữ thì ít thấy. Nhưng Xuân Quỳnh đã làm được điều đó qua bài thơ Sóng – một bài thơ tình hay nhất trong sự nghiệp của chị.

Khi nhắc về tình yêu, người ta không thể không nhắc tới nỗi nhớ và sự thủy chung nên trong “Sóng” chị đã dành cho nỗi nhớ và sự thủy chung một phần khá quan trọng trong hai khổ thơ:

Khi nhắc đến Xuân Quỳnh, người đọc thường nhắc tới một giọng thơ nồng hậu, thiết tha lúc nào cũng khao khát và ngập tràn thương yêu. Tình yêu trong thơ chị lúc nào cũng cồn cào, sâu sắc và mạnh mẽ, nhưng cũng không kém phần dịu dàng nữ tính. Sóng được chị viết vào năm 1967 khi chị còn rất trẻ với một tâm hồn còn đầy rạo rực yêu thương và tình yêu. Bài thơ được in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào”. Hai khổ thơ mà ta bình giảng trên nằm ở phần giữa bài thơ, nó nói lên nỗi nhớ nhung của tình yêu và sự thủy chung. Hình tượng xuyên suốt bài thơ vẫn là hình tượng “Sóng” – sóng ở đây được Xuân Quỳnh gửi vào đó cả tâm hồn người con gái khi đang yêu. Mượn sóng để nói đến người phụ nữ và tình yêu của phụ nữ, đây là việc Xuân Quỳnh đã từng làm trong “Thuyền và biển”. Nhưng ở trong hai khổ thơ này, sóng là sóng của nhớ nhung, chung thủy.

Ngay khổ thơ thứ nhất, Xuân Quỳnh với cách sử dụng điệp cấu trúc, điệp từ“con sóng” và cách sử dụng tương quan đối lập “dưới lòng sâu”, đối lập với “trên mặt nước” đã miêu tả hai con sóng ở hai vị trí khác nhau nhưng chúng cùng mang một nỗi “nhớ bờ”… Tương quan đối lập được nói ở trên khiến người đọc cảm nhận nỗi nhớ ấy như mạnh mẽ, da diết hơn, nỗi nhớ ấy không chỉ hiện hữu trên mặt nước mà còn ở chiều sâu từng mét nước. Dường như con sóng mang nỗi nhớ tràn ngập trong suốt bản thân mình. Nỗi nhớ như thấm đẫm trên từng ngọn sóng tới chân sóng. Bởi vì sóng là hiện thân của người con gái, là hiện thân của tình yêu mãnh liệt của người con gái nên ở đây ta có thể hiểu nỗi nhớ cũng đang tràn ngập trong lòng người con gái, nó hiện hữu qua khuôn mặt buồn nhớ qua tâm trạng sầu nhớ.

Câu thơ thứ ba cất lên như một tiếng thốt của tâm trạng: “Ôi con sóng nhớ bờ”. Phải nhớ thương nhiều lắm, nỗi nhớ phải da diết, nồng nàn lắm thì mới có thể thốt lên, mới có thể gọi thành tên như vậy. Từ “Ôi” là từ cảm thán được nhà thơ đưa lên đầu câu thơ càng khiến tứ thơ thêm mềm mại như tâm hồn người con gái:

Xuân Quỳnh đã nhân hóa hình ảnh sóng khiến sóng như một con người cụ thể với những diễn biến tâm trạng sinh động. Chính vì vậy, nỗi nhớ của người phụ nữ qua hình ảnh “sóng nhớ bờ” càng đậm nét. Vẫn với cách nhân hóa hình tượng “sóng” ở câu thơ thứ tư, Xuân Quỳnh đã đem tới một ý thơ mới mẻ “Ngày đêm không ngủ được”. Trạng từ chỉ thời gian “ngày đêm” cùng với đại từ phủ định “không” đã góp phần miêu tả một nỗi nhớ dai dẳng, khôn nguôi luôn luôn thường trực cả trong ngày và đêm. Có lẽ khi tình yêu đến, khi nỗi nhớ trong tình yêu ngập tràn trong lòng, thì đó lại là điều không khó hiểu.

Nếu như ở khổ thơ này, nỗi nhớ của người phụ nữ trong tình yêu được gián tiếp gửi gắm qua hình tượng con sóng, thì ở hai câu cuối Xuân Quỳnh đã chính thức cất lên tiếng nói nhớ nhung: Lòng em nhớ đến anh/Cả trong mơ còn thức. Sóng “không ngủ được” ở trên, đến đây hoàn toàn có thể hiểu là người con gái không ngủ được. Nỗi nhớ ở đây một lần nữa được tràn ngập trong lòng người con gái nó hiển hiện trong cả lúc có nhận thức và cả trong vô thức “lúc mơ”. Khổ thơ nói tới nỗi nhớ, nhưng cũng góp phần miêu tả một tình yêu sâu sắc mãnh liệt với nhớ nhung là biểu hiện rõ nét nhất của tình yêu. Khổ thơ tiếp theo:

Một lần nữa biện pháp điệp cấu trúc, cách sử dụng tương quan đối lập được Xuân Quỳnh tận dụng để nói tới sự thủy chung trong tình yêu. “Dẫu” là một từ có tính chất phủ định dù có xa xôi cách trở, dù cách xa với những miền đất xa tắp “phương Bắc” hay “phương Nam” thì trong lòng con sóng chỉ có một phương là bến bờ, còn trong lòng người phụ nữ thì chỉ có một phương hướng tới đó chính là tình yêu của mình, đó chính là người yêu. Thủy chung là một đặc tính đặc biệt và hết sức cần thiết trong tình yêu, nó cũng là đặc điểm của những người phụ nữ Việt Nam. Khi sử dụng cụm từ“nơi nào”, Xuân Quỳnh đã như cất lên lời nguyện suốt đời chung thủy với người yêu, với anh. Nếu như xuôi về phương Bắc, ngược về phương Nam là con đường thực tế nối những vùng đất thì “Hướng về anh một phương” là con đường gắn kết nối hai trái tim con người đang tràn ngập yêu thương.

Với hai khổ thơ, Xuân Quỳnh một lần nữa khắc họa tình yêu người phụ nữ. Cách sử dụng các biện pháp tu từ, đối lập, tương phản, điệp, cách sử dụng từ cảm thán và cách mượn hình tượng sóng đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm. Với thành công của mình, “Sóng” luôn xứng đáng là bài thơ tình được mọi thế hệ thanh niên yêu thích.

Tình yêu là đề tài đầy ma lực với bao ngòi bút thơ ca, là cung đàn muôn điệu làm rung động bao trái tim yêu để từ đó ngân lên thành lời thơ nhân loại. Mỗi một nhà thơ đều có những cảm nhận khác nhau về tình yêu: “Một Tago đầy triết lý ngụ ngôn; một Puskin nồng nàn và cao thượng, một Xuân Diệu rạo rực, đắm say, vồ vập; một Hàn Mặc Tử say đắm mà bơ vơ…”. Và đến với bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh ta lại bắt gặp một cảm xúc tình yêu đầy trăn trở khát khao của một tâm hồn người phụ nữ luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Đặc biệt, trong bài thơ, hai khổ thơ năm và sáu nói về nỗi nhớ và sự thủy chung trong tình yêu để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.

Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ nữ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ trong thời kì kháng chiến chống Mỹ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. “Sóng” là bài thơ tình yêu đặc sắc của Xuân Quỳnh, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Đoạn thơ trên là khổ năm và sáu của bài thơ “Sóng” – tình yêu gắn liền với nỗi nhớ và lời thề thủy chung.

Khổ thơ thứ năm là khổ thơ đặc biệt nhất trong bài thơ “Sóng” – bởi nó có sáu câu. Dường như nỗi nhớ không thể đong đầy trong bốn dòng thơ ngắn ngủi nên Xuân Quỳnh đã chắp bút thêm hai câu thơ nữa để cân bằng nỗi nhớ cháy bỏng mãnh liệt của trái tim người phụ nữ khi yêu. Bằng thủ pháp nhân hóa và ẩn dụ, nhà thơ mang đến cho người đọc nỗi nhớ của sóng về bờ đồng thời cũng là nỗi nhớ của em về anh.

Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ bởi nỗi nhớ chính là giai điệu là hợp âm chủ đạo của tình yêu. Thơ xưa nói “nhất nhật bất kiến như tam thu hề” (một ngày không gặp mà ngỡ như đã ba năm); trong tình yêu, nỗi nhớ là thước đo khoảng cách “nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời” (Chinh phụ ngâm); tình yêu có khi muốn quên lại càng nhớ: “Nói rằng quên, có dễ quên/ Mỗi chiều em đứng bên hiên nhớ chàng” (Thanh Tâm). Với Xuân Quỳnh, nỗi nhớ người mình yêu ngập tràn khắp nẻo:

Hai câu thơ với hình thức lặp cấu trúc “con sóng – con sóng” quyện hòa cùng nghệ thuật đối “dưới lòng sâu – trên mặt nước” tạo nên sự điệp trùng của những con sóng với nhiều dạng thức khác nhau:

Sóng không chỉ “dữ dội – dịu êm”; “ồn ào – lặng lẽ” mà sóng còn hiện diện “dưới lòng sâu” (sóng ngầm – chiều sâu) , “trên mặt nước” (sóng nổi – chiều rộng). Có con sóng dữ dội tung bọt trắng xóa trên mặt biển ngày đêm gào thét cùng đại dương nhưng cũng có con sóng âm thầm đi ngầm dưới lòng sâu, không ai thấy nó, khó ai cảm nhận được về nó, chỉ riêng nó mới hiểu mình đang cồn cào. Cả hai kết hợp với nhau làm nên sự đa dạng của sóng biển. Đó cũng là nỗi nhớ của sóng, của em vừa có chiều sâu vừa có chiều rộng. Sóng là em, em là sóng. Cũng như sóng kia, tâm hồn em cũng vô vàn những phức tạp khó hiểu. Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để ẩn dụ cho nỗi niềm của người phụ nữ khi yêu.

Hai câu sau diễn tả nỗi nhớ của sóng, dù sóng trên mặt nước hay sóng dưới lòng sâu thì cả hai đều nhớ bờ, đều hướng vào bờ:

Thì ra là “con sóng nhớ bờ”. Bờ là đích đến cuối cùng của sóng. Vì nhớ bờ mà nó bất chấp cả không gian rộng lớn vô biên, bất chấp cả thời gian “ngày đêm” để vươn tới bờ. Sóng cồn cào nhớ nhung và khao khát gặp bờ đến độ “không ngủ được”. Nỗi nhớ từ đó cũng trùm lên mọi không gian “dưới lòng sâu – trên mặt nước”; trùm lên mọi thời gian “ngày đêm”.

Dường như bốn câu thơ không thể chuyên chở hết được nỗi nhớ đang dâng trào nên Xuân Quỳnh đã thêm hai câu thơ nữa vào khổ thứ năm để hoàn thiện giai điệu ấy của nỗi nhớ. Ấy là lúc mà hình tượng “em” hiện ra với nỗi lòng nồng nàn, băn khoăn, bồn chồn, thao thức:

Xuân Quỳnh xao xuyến nhận ra sự tương đồng kỳ diệu giữa một hiện tượng thiên nhiên vĩnh hằng của trời đất với những trạng thái cảm xúc của tình yêu luôn dào dạt trong lòng mình. Nếu sóng nhớ bờ thì em nhớ anh – đó là quy luật của tình yêu muôn thuở. Nỗi nhớ không chỉ có mặt trong thời gian được ý thức (khi chưa ngủ ) mà còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ (ngủ vẫn nhớ nhung). Như vậy có thể nói đây là một nỗi nhớ thường trực trong trái tim của người phụ nữ khi yêu. Hình tượng thơ cho thấy những khát khao mãnh liệt của người phụ nữ: sóng khao khát được có bờ – em khao khát được có anh.

Xuân Quỳnh hay mượn ngôn ngữ của cơ thể để diễn tả nỗi nhớ: nỗi nhớ dâng lên mắt, nỗi nhớ ngập cả tâm hồn, thậm chí là nỗi nhớ đầy ắp cả đôi tay:

(Bàn tay em)

Ở khổ thơ thứ năm này, Xuân Quỳnh dùng chữ “Lòng” thật chính xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với tình yêu. “Lòng” là chốn sâu kín nhất của tâm hồn con người, nhất lại là tâm hồn người phụ nữ. Lòng là kết tinh của tình cảm được chưng cất trong một thời gian dài qua biết bao thử thách. Vì vậy mà tấm lòng ấy không chút hời hợt mà đã là gan, là ruột của người phụ nữ rồi. Cho nên khi nói “Lòng em nhớ đến anh” dường như Xuân Quỳnh đã dốc hết cả nỗi lòng mình để nghiêng hết về phương anh. Cô gái trong Xuân Quỳnh là thế, cô gái trong ca dao cũng thế, đó là tâm trạng chung cho người phụ nữ khi yêu.

(Ca dao)

Nếu nỗi nhớ là chất men say đánh thức tình yêu thì sự thuỷ chung lại là thước đo của tình yêu, của lòng người:

Khi yêu, người ta thấy sự xa cách và thời gian chẳng là gì cả. Bởi vì chỉ cần nghĩ về nhau, thì bóng dáng người yêu đã đầy ắp trong tâm hồn.

Đầu mỗi câu thơ, Xuân Quỳnh đã đóng vào đó những từ chỉ sự đối lập: “dẫu xuôi – dẫu ngược”. Cách nói “xuôi Bắc, ngược Nam” lại trái với quy luật thông thường. Phải nói là “xuôi Nam” “ngược Bắc” mới đúng. Động từ xuôi – ngược vốn lại là những động từ chỉ sự vất vả, truân chuyên: “xuôi Nam ngược Bắc”, đi Nam về Bắc, xuôi ngược bôn ba… Lại thêm “dẫu xuôi, dẫu ngược” nữa thì lại càng nhân lên gấp bội phần những gian nan vất vả. Phải chăng đó là sự vất vả của con người trong cuộc hành trình nhọc nhằn tìm kiếm hạnh phúc. Ý thơ còn gợi một quyết tâm lớn của người phụ nữ: cuộc đời dẫu có thế nào đi chăng nữa thì em vẫn mãi mãi yêu anh. Tình yêu có thể làm đảo lộn phương hướng Bắc, Nam nhưng phương hướng thế nào không quan trọng, quan trọng nhất vẫn là “phương anh” mà em luôn hướng về.

Xuân Quỳnh buộc chặt bao “sợi nhớ, sợi thương” nghiêng hết tình, dốc hết yêu thương về “phương anh”. Hướng về anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch “một phương” thì nơi em hướng về là bất di bất dịch. Anh đã thành “hệ quy chiếu” của đời em. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn. Chỉ cần nghĩ về anh, nhớ về anh thì anh đã ở trong trái tim em rồi.

Thành công của đoạn thơ là nhờ vào một số thủ pháp nghệ thuật: Ẩn dụ, nhân hóa, đối lập, lặp cấu trúc… kết hợp với thể thơ năm chữ đã làm nên những con sóng nhiều trạng thái tình cảm. Cách xây dựng hai hình tượng song hành: sóng và em độc đáo. Sóng vừa là sóng biển vừa là sóng lòng của người phụ nữ đang yêu. Hình tượng sóng rất đa dạng: lúc dữ dội, ồn ào, lúc dịu êm lặng lẽ cũng như tâm hồn em vậy dịu dàng lắm và cũng nồng cháy, mãnh liệt lắm.

Văn học là lĩnh vực của sự sáng tạo, vì vậy nó không cho phép sự trùng lặp, tương đồng, liên văn bản tuyệt đối. Nhưng điều kỳ diệu là ở chỗ, tác phẩm văn học lại là nơi gặp gỡ, đồng điệu của những tâm hồn nên nó vẫn có những điểm tương đồng, giao thoa. Bởi vậy sẽ không ngạc nhiên khi “Sóng” của Xuân Quỳnh và “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử lại có những điểm giống nhau đến không ngờ. Cả hai đoạn thơ đều thể hiện nỗi nhớ nhung, niềm khát khao gặp gỡ đến cháy bỏng. Đó là khao khát có được hạnh phúc và tình yêu; khao khát được chạm đến yêu thương để khỏa lấp nỗi mong chờ và để được đến với bến bờ hạnh phúc. Nếu “Sóng” cồn cào nhớ thương đến “ngày đêm không ngủ được” và “cả trong mơ còn thức”; yêu đến nỗi bất chấp cả mọi không gian phương Bắc, phương Nam để được yêu; thì “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là tình yêu gắn liền với khắc khoải, chờ mong đến mỏi mòn.

Tuy nhiên nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình. Về mặt nội dung: Nếu “Sóng” là trái tim người con gái khi yêu bất chấp mọi vạn vật không gian, thời gian để đến được với người mình yêu; lấy thuỷ chung làm thước đo của tình yêu, lấy nỗi nhớ để tình yêu thêm nồng nàn; thì khổ thơ cuối trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” lại là một nỗi lòng tâm sự nặng trĩu vì một mối tình đơn phương vô vọng chưa một lần được đáp lại yêu thương. Về mặt nghệ thuật: “Sóng” hòa mình trong thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, nhịp sóng và nhịp lòng với bao thổn thức yêu thương. Những ẩn dụ, nhân hoá, tương phản, điệp cấu trúc… hoà kết thành một đại dương tình yêu nhiều cung bậc. “Đây thôn Vĩ Dạ” lại sử dụng thể thơ thất ngôn; phép điệp ngữ, cách ngắt nhịp tinh tế; ngôn ngữ, hình ảnh thơ mộc mạc, giản dị; sử dụng câu hỏi tu từ để bật lên cái tôi với bao khắc khoải trong một mối tình vô vọng, đơn phương.

Tóm lại, “Sóng” là câu chuyện tình yêu đẹp và nhân văn của một hồn thơ nữ tính luôn giàu những khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Bài thơ đã đi vào lòng người và mãi mãi khắc ghi một bài ca không quên về một câu chuyện tình yêu đầy lãng mạn. Gấp trang sách lại rồi mà dường như trong ta vẫn còn ngân nga một giai điệu của “sóng và em”.

Xuân Quỳnh được là một nhà thơ tình với nhiều tác phẩm nổi tiếng. Một trong số đó chính là bài thơ “Sóng” đã diễn tả tình yêu của người phụ nữ. Đặc biệt là khổ thơ thứ năm và thứ sáu đã diễn tả được nỗi nhớ và lòng thủy chung trong tình yêu.

Có tình yêu nào mà không phải trải qua nỗi nhớ. Dù ở không gian “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”, dù “ngày” hay “đêm” thì con sóng vẫn nhớ “đến bờ” mà thao thức bồn chồn đến nỗi “không ngủ được”. Xuân Quỳnh đã lấy không gian và thời gian để đo đếm nỗi nhớ trong tình yêu. Nhưng nào ai có thể đong đếm hết được nỗi nhớ? Nếu con sóng nhớ đến bờ có thể bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Thì nỗi nhớ của “em” lại vượt qua mọi khoảng cách về không gian, thời gian. Nếu sóng nhớ đến bờ thì em cũng nhớ đến anh. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong tâm trí của “em”. Ngay đến trong giấc mơ cũng chẳng thể nào ngừng được. Ca dao đã từng diễn tả nỗi nhớ của những người yêu nhau:

Hay như:

Nỗi nhớ trong tình yêu đã không còn xa lạ gì, nhưng cách diễn tả của Xuân Quỳnh lại thật đặc biệt.

Bên cạnh những quan niệm mới mẻ trong tình yêu, Xuân Quỳnh vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống. Đó chính là tấm lòng thủy chung của người con gái khi yêu. Hình ảnh thơ đối lập “xuôi” – “ngược”, “phương Bắc”’ và “phương Nam” được nhà thơ sử dụng với dụng ý nghệ thuật sâu sắc. Thông thường, người ta thường nói “ngược về phương Bắc” và “xuôi về phương Nam”. Nhưng ở đây Xuân Quỳnh lại dùng cách nói ngược lại để thể hiện dụng ý nghệ thuật. Dù cuộc đời có luôn biến chuyển không ngừng, đôi ta phải trả qua nhiều sóng gió, vạn vật có luôn đổi thay. Thì đối với “em”, ở bất cứ “nơi nào” – cụm từ phiếm chỉ, không xác định rõ không gian, thời gian, vẫn hướng về “phương anh” – một phương duy nhất. Tấm lòng của “em” vẫn luôn nguyên vẹn dành cho “anh”, hướng đến “anh”.

Tóm lại, qua phân tích trên, người đọc có thể thấy được một trái tim yêu thương với những khát mong về tình yêu thật cao đẹp. Cũng giống như trong Tự hát, Xuân Quỳnh cũng từng viết:

“Sóng” của Xuân Quỳnh là một trong những bài thơ nổi tiếng viết về đề tài tình yêu. Xuân Quỳnh đã khắc họa hình ảnh “sóng” để nói về tính cách và tâm hồn của người phụ nữ khi yêu vừa hiện đại mà vừa truyền thống. Đặc biệt nhất phải kể đến khổ thơ thứ năm và thứ sáu của bài thơ.

Có tình yêu nào mà không được đong đếm bằng nỗi nhớ. Và trong thơ Xuân Quỳnh cũng vậy:

“Con sóng” được khắc họa ở hai chiều – không gian và thời gian. Dù “ở dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước” – chiều không gian, dù là “ngày” hay “đêm” – chiều thời gian, thì con sóng “vẫn nhớ đến bờ” đến nỗi không ngủ được. Và nếu “sóng” nhớ “bờ” thì “em” lại nhớ đến “anh”. Nhưng con sóng kia còn có thể bị ngăn cách bởi không gian, thời gian. Còn nỗi nhớ của em thì phá vỡ mọi khoảng cách địa lý. Em nhớ anh mà ngay cả “trong mơ vẫn còn thức”. Hình ảnh của anh đã đi vào tâm trí của em. Đó chẳng phải là điều gì xa lạ trong thơ ca. Ca dao đã từng có những câu thơ diễn tả nỗi nhớ của những người yêu nhau:

Còn Nguyễn Bính lại thật khéo léo mượn hình ảnh sau để diễn tả nỗi nhớ:

(Tương tư)

Trong tình yêu, Xuân Quỳnh cũng khẳng định tấm lòng thủy chung như bao nhiêu nhà thơ khác:

Hình ảnh thơ đối lập “xuôi” – “ngược”, “phương Bắc”’ và “phương Nam” được nhà thơ sử dụng trái với quy luật thông thường (ngược về phương Bắc, xuôi về phương Nam) với dụng ý nghệ thuật sâu sắc. Dù cuộc đời có luôn biến chuyển không ngừng, đôi ta phải trả qua nhiều sóng gió, vạn vật có luôn đổi thay. Thì em vẫn luôn hướng về “phương anh”. Trái tim của em vẫn giữ được tình yêu nguyên vẹn dành cho anh dù có trải qua biết bao nhiêu khó khăn, sóng gió trong cuộc đời. Em vẫn hướng về “phương anh” – một phương duy nhất, không hề thay đổi. Tấm lòng thủy chung, son sắc của em thật đáng trân trọng. Như vậy, người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh tuy đầy mãnh liệt, sôi nổi nhưng vẫn đằm thắm, thủy chung – nét đẹp cổ điển.

Như vậy, “Sóng” là một bài thơ đẹp về tình yêu. Bài thơ nói hộ tiếng lòng của biết bao người con gái trong tình yêu. Và hai khổ thơ năm và sáu là một trong những khổ thơ hay của bài thơ này.

Xuân Quỳnh là gương mặt tiêu biểu thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Một trong những bài thơ nổi tiếng của chị phải kể đến “Sóng”. Với bài thơ này, Xuân Quỳnh đã xây dựng hình tượng “sóng” để qua đó nói về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Điều đó được thể hiện rõ qua khổ thơ thứ năm và thứ sáu trong bài thơ:

Trong tình yêu, có lẽ thứ gia vị đặc biệt nhất chính là nỗi nhớ. Cũng như các nhà thơ khác, Xuân Quỳnh cũng nói về nỗi nhớ nhưng với cách rất riêng. Hình ảnh sóng đối lập giữa không gian “dưới lòng sâu” và “trên mặt nước” và thời gian “ngày” và “đêm”. Nhưng dù có ở nơi đâu, tại thời điểm nào, con sóng vẫn cồn cào nhớ đến bờ. Em cũng vậy, cũng nhớ đến “anh” mà ngay “cả trong mơ còn thức” – kì lạ thay sao trong giấc mơ lại vẫn có thể thức? Phải chăng nỗi nhớ xâm chiếm lấy tâm hồn người con gái để rồi ngay cả trong giấc ngủ, hình bóng của người yêu vẫn còn đó. Cũng giống như những lời thơ mà ông hoàng thơ tình Xuân Diệu từng bộc lộ:

(Tương tư chiều)

Quả là khi yêu đâu có ai muốn làm người bình thường. Để rồi sau đó, Xuân Quỳnh tiếp tục để cho “em” bộc lộ tấm lòng thủy chung của mình. Ai cũng khao khát có một tình yêu chung thủy, và “em” cũng không phải là ngoại lệ:

Điệp từ “dẫu” kết hợp với hình ảnh “xuôi về phương Bắc” và “ngược về phương Nam – trái với quy luật thông thường của vị trí địa lí (ngược về phương Bắc, xuôi về phương Nam). Qua đó, nhà thơ muốn nhấn mạnh dù cuộc đời này có biến chuyển không ngừng, thậm chí là trái với quy luật của tự nhiên. Thì đối với “em”, tình yêu dành cho anh vẫn không hề thay đổi. Trái tim em vẫn luôn giữ trọn vẹn tấm lòng son sắc dành cho người yêu thương. Dù em có ở nơi nào, cũng vẫn hướng về một phương duy nhất, không hề thay đổi, đó chính là “phương anh”. Nơi nào có anh, nơi đó chính là nhà.

Quan phân tích trên, có thể thấy “Sóng” là một bài thơ đẹp viết về tình yêu. Người con gái trong tình yêu của Xuân Quỳnh vẫn giữ được những nét truyền thống.

Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Đặc biệt nhất là khi đọc đến khổ thơ năm và sáu của bài thơ.

Tình yêu luôn đi liền với nỗi nhớ. Thơ ca đã từng dồn bút lực để viết về thứ gia vị tuyệt vời ấy:

(Ca dao)

Hay trong bài Việt Bắc, Tố Hữu đã từng viết:

Còn ở đây, Xuân Quỳnh lại viết rằng:

Tâm hồn đang yêu soi chiếu vào hình ảnh “sóng” để từ đó diễn tả cái bao la, sâu sắc của nỗi nhớ trong lòng mình. Dù ở chiều không gian là “dưới lòng sâu”, hay là “trên mặt nước” – ý chỉ không gian bao la rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ. Dù ở chiều thời gian là “ngày” hay là “đêm” – ý chỉ thời gian tuần hoàn luôn thay đổi. Thì con sóng vẫn nhớ đến bờ, khao khát gặp lại bờ. Nếu con sóng nhớ bờ, thì em cũng nhớ đến anh. Nỗi nhớ ấy không chỉ chiếm lĩnh về mặt ý thức. Mà còn chiếm lĩnh trong cẩ tiềm thức – “trong mơ vẫn còn thức” có nghĩa là ngay cả trong mơ vẫn nhớ về. Nỗi nhớ của em lúc này đã vượt qua mọi khoảng cách.

Càng nhớ nhung bao nhiêu, người con gái trong tình yêu lại muốn gắn bó, chung thủy bấy nhiêu. Cũng giống như mọi con sóng, dù muôn vời cách trở xa xôi, đến cuối cùng vẫn tìm tới được bờ. Thì lòng em cũng như vậy:

Cuộc đời luôn ẩn chứa nhiều biến động, không ai có thể biết trước được những điều sẽ xảy ra trong tương lai. Nhưng dù có “xuôi về phương Bắc” hay “ngược về phương Nam” thì tấm lòng của em vẫn không thay đổi. Ở đây, nếu theo quy luật thông thường người ta sẽ nói “xuôi Nam, ngược Bắc”, nhưng Xuân Quỳnh lại chọn cách nói như trên để cho thấy rằng tình yêu không theo bất cứ một quy luật tự nhiên nào. Dẫu vậy, ở nơi nào, em cũng hướng đến một phương duy nhất, đó chính là “phương anh”. Trái tim thủy chung của em vẫn dành cho duy nhất một người – đó là anh:

Advertisement

Trong bất cứ hoàn cảnh nào, tấm lòng thủy chung của người con gái trong thơ Xuân Quỳnh vẫn cứ không thay đổi. Một trái tim sống trọn vẹn cho tình yêu chung thủy.

Hai khổ thơ đã thể hiện được những vẻ đẹp truyền thống của người con gái trong tình yêu. Khi đọc “Sóng” của Xuân Quỳnh, chắc hẳn mỗi người đều cảm thấy rung động trước những cung bậc cảm xúc đầy yêu thương của tình yêu.

Cảm xúc chính là điệu hồn của bài thơ, vậy nên “thơ hay là thơ chín đỏ cảm xúc” (Xuân Diệu). Ở hai khổ thơ năm và sáu, Xuân Quỳnh đã phổ cả điệu hát của tâm hồn mình vào đó, rồi mang nỗi nhớ trong tình yêu lên một tầng cảm xúc mới. Đồng thời, cũng khẳng định nét đẹp tâm hồn bao đời nay của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

Nỗi nhớ là cung bậc cảm xúc muôn thuở trong tình yêu, nhưng nỗi nhớ ấy qua màng lọc tâm hồn của mỗi nhà thơ lại được tái hiện một cách riêng, độc đáo và mang đậm phong cách của người nghệ sĩ ấy. Ca dao mang nỗi nhớ vào bằng cách diễn đạt giản dị, giống như tâm hồn mộc mạc của người dân xưa “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ/ nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”? Cái ngẩn ngơ ấy, đến thơ trung đại được diễn đạt bằng những hình ảnh hàm súc, cô đọng hơn, nỗi nhớ làm hao huyết cả thời gian, mà cũng như đang giằng xé con người trong niềm cô đơn đợi chờ mòn mỏi “ba thu dọn lại một ngày dài ghê”. Đến thơ mới, Nguyễn Bính mang nỗi niềm tương tư ấy của mình giăng mắc khắp các miền không gian, nỗi nhớ của con người chuyển dịch thành không gian nhớ nhau, cái nhớ trong thơ Nguyễn mới thật đậm chất của một nhà thơ chân quê. Đến Xuân Quỳnh nỗi nhớ vẫn là cảm xúc da diết, bổi hồi bồi hồi ấy trong tình yêu, nhưng được biểu đạt qua hình tượng sóng nên càng mang sức gợi mới mẻ, hấp dẫn, hiện đại. Con sóng dào dạt, đại dương mênh mông, vì thế mà vừa gợi nỗi nhớ, vừa gợi cơn khát mong cồn xé của trái tim. Nỗi nhớ ấy không được ngoại hiện, nhưng lại nhấn chìm thời gian vượt mọi không gian, xâm chiếm cả trong tiềm thức ý thức, vô thức, để đạt đến đường biên của khả giải, bất khả giải. Tưởng chừng như trái tim yêu tha thiết mà cũng mãnh liệt đấy đang tự hát lên điệu hồn mình, đang mang nỗi nhớ lấp đầy pháp trường trắng cô đơn cô độc ấy. Nỗi nhớ một lần nữa xuất hiện, và đến Xuân Quỳnh thực sự đã mang một sắc thái biểu đạt mới.

Thế giới trong trái tim em, chỉ có một phương anh duy nhất. lời khẳng định chắc nịch ấy của một trái tim yêu vừa tha thiết mà cũng thật mãnh liệt biết bao. Đó chẳng phải là tấm lòng thủy chung, son sắt của người phụ nữ Việt Nam muôn thuở trong tình yêu ư? Do đó, ta thấy ở đây, Xuân Quỳnh đã đi vào hồn mình, tự hát điệu hồn mình, nhưng lại chạm đến hồn muôn người, muôn nẻo, khơi gợi sự đồng cảm mãnh liệt trong tâm hồn người đọc.

Thơ Xuân Quỳnh xưa nay vẫn vậy, vẫn nhỏ nhẹ, khiêm nhường, để lắng lòng cùng ta về những tâm tình đã cũ, về những câu chuyện tưởng như đã phai màu trong cuộc sống hiện tại, nhưng đó mới chính là những giá trị vĩnh hằng mà nhân loại hướng đến, do đó mà có sức trường cửu mãnh liệt trong tâm hồn người đọc.

Phải, có những con sóng như thế, những con sóng mang trong mình biết bao đói cực vẫn đêm ngày cuộn tròn trong thơ, trong tâm hồn người phụ nữ đa tài, đa tình và cũng đa đoan ấy: nữ sĩ Xuân Quỳnh. Và bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh đã chuyên chở hết cái tài, cái tình và cả cái đa đoan ấy của nữ sĩ mà tiêu biểu là đoạn thơ:

Hòa cùng những con sóng: sóng thơ, sóng lòng, ta tìm về cõi sâu kín của tâm hồn thi sĩ và cũng là của muôn kiếp “má hồng”. Bài thơ “Sóng” ra đời khi những con sóng lòng dâng lên dữ dội, những con sóng nhớ thương, thao thức của một tâm hồn đang yêu. Cả bài thơ là những đợt sóng nối nhau vỗ vào tâm hồn người đọc. Sóng và nhân vật em đan quyện vào nhau để thì thầm những nỗi niềm, những tâm tư. Và có thể nói, khổ thơ:

Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để diễn ta nỗi niềm của người phụ nữ khi yêu. Sóng muôn đời vẫn thế, có bao giờ thôi vỗ sóng, có khi nào chẳng cồn cào, ẩn sâu trong ngực sóng là nhịp đập của đại dương mênh mông. Sóng chẳng còn là sóng nếu tĩnh yên, lặng lẽ. Vì vậy mà sóng đã được Xuân Quỳnh diễn tả bằng một từ ngữ rất sáng tạo “ không ngủ được”. Sóng là vậy, dù lặng yên dưới lòng biển hay dữ dội trên mặt đại dương thì ngàn đời vẫn khát khao tìm về bến bờ tĩnh tại. Chưa đến được bờ thì nhớ thương, thương nhớ, thì thao thức một nỗi niềm. Chọn hình tượng sóng – một trong những hình tượng đồng nhất của tự nhiên, Xuân Quỳnh đã khẳng định được bản lĩnh của mình. Chọn hình tượng động để gắn với người phụ nữ, người mà xưa nay được ví như liễu yếu đào tơ, Xuân Quỳnh phải đứng trước nhiều thử thách nhưng chị đã vượt qua bằng một bản lĩnh vững vàng và hơn hết là bằng một tâm hồn phụ nữ nhạy cảm tinh tế. Còn sự vật nào hơn sóng có thể diễn tả hết được cái lòng người phụ nữ đang yêu: nồng nàn, băn khoăn, bồn chồn, thao thức lắm ! Nỗi băn khoăn ấy được góp nước từ nỗi nhớ: nhớ một người!

Sóng bây giờ dường như cũng đã không còn đủ sức chuyên chở nỗi lòng người phụ nữ. Nỗi nhớ như thiêu, như đốt, như phá tan những phàm tục đời thường, cất cánh đưa người phụ nữ đến một cõi mơ. Ở đây Xuân Quỳnh dùng từ “ lòng” thật chính xác để diễn tả tình cảm của người phụ nữ với tình yêu. Lòng là chốn sâu kín nhất của tâm hồn, lòng là kết tinh của tình cảm được chưng cất trong một thời gian dài qua biết bao thử thách. Vì vậy mà tấm lòng ấy không chút hời hợt mà đã là gan, là ruột của người phụ nữ rồi. “Lòng em nhớ đến anh”, ơi thương sao câu nói giản dị, chân thành mà nồng nàn, da diết đến thế. Câu thơ “cả trong mơ còn thức” lóe lên điểm sáng của nghệ thuật. Có thể nói, với câu thơ ấy, Xuân Quỳnh đã có thể được xem là thi sĩ tài năng bật nhất của thi ca hiện đại Việt Nam. Câu thơ như trào dâng nâng nỗi nhớ niềm thương.

Sóng – em đan quyện vào nhau. Em lặng đi để sóng trào lên. Nhưng sóng cũng là em, sóng trào lên mang theo lớp lớp tâm tình của em

Đầu mỗi câu thơ, Xuân Quỳnh đã đóng vào đó những từ chỉ sự đối lập (“dẫu”). Nó chỉ một sự khẳng định chắc nịch, vững vàng rằng khó khăn, thách thức là mấy em vẫn mãi yêu anh. Chẳng phải là “ngược Bắc”, “xuôi Nam” mà là “xuôi Nam” “ngược Bắc”. Phương hướng thế nào không quan trọng, quan trọng nhất vẫn là “phương anh”.

Người phụ nữ ấy sống mãi cùng sóng lòng, sóng thơ và “sóng”. Cũng như sóng kia, nhịp đập thủy triều có bao giờ nguội yên trong ngực biển, người nữ sĩ ấy vẫn mãi bên đời cùng một nhịp đập yêu thương. Con sóng trong thơ chị phải đâu là con sóng một thuở mà nó đã thành con sóng ngàn đời: con sóng tình yêu, con sóng yêu thương, con sóng của một tâm hồn đẹp. Vỗ mãi con sóng thương yêu!

Xuân Quỳnh là nữ thi sĩ của tình yêu, là một trong những tác giả xuất sắc trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cũng như trong văn học Việt Nam hiện đại. Thơ của Xuân Quỳnh là tiếng lòng của người phụ nữ đầy trắc ẩn, vừa hồn nhiên vừa tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm của khát vọng tình yêu lứa đôi. Xuân Quỳnh đã để lại cho những thế hệ sau rất nhiều những bài thơ ca hay có giá trị trường tồn mãi mãi về sau. Nhưng trong đó bài thơ “Sóng” vẫn nổi bật hơn cả. Bài thơ là tiếng lòng trực tiếp của những khao khát sôi nổi , mãnh liệt mà chân thành, tự nhiên của một người con gái khi yêu. Hình tượng”sóng” được bộc lộ một cách sinh động qua tâm trạng của người con gái khi đang yêu. Điều đó thể hiện rõ qua 2 khổ thơ 5,6 của bài:

Bài thơ Sóng được sáng tác năm 1967, là kết quả của chuyến đi thực tế đến vùng biển Diêm Điền (Thái Bình) và được đưa vào tập thơ “Hoa dọc chiến hào” – tập thơ đầu tay của Xuân Quỳnh vào năm 1968. Khi viết bài thơ này Xuân Quỳnh chỉ 25 tuổi, độ tuổi trẻ trung, nhiều mơ mộng lãng mạn, khát khao tình yêu. Vào thời kì đó đất nước ta vẫn còn đang phải chiến đấu, và trên đất nước vẫn phải chịu những cuộc chia ly màu đỏ. Vậy nên những tác phẩm trong thời kì đó đều thường nói về chiến tranh nhưng người con gái đó lại viết về tình yêu đôi lứa. Chính điều đó mà bài thơ được coi là bông hoa lạ ” nở dọc chiến hào ” trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước vô cùng khó khăn và khốc liệt. Hình tượng xuyên suốt trong bài thơ là hình tượng “sóng” – mượn hình ảnh sóng để bày tỏ tâm tình của người con gái đang yêu,với khát khao tình yêu cháy bỏng. Song hành với hình tượng”Sóng” là hình tượng ” em”. “Em” cũng là “sóng” mà “sóng” cũng chính là “em”. “Sóng” và “em” khi thì hoà nhập vào m một khi thì phân đôi ra soi chiếu vào nhau. Với cấu trúc song hành này đã tạo chiều sâu nhận thức và nét độc đáo riêng cho bài thơ. Những đặc điểm của những con sóng cũng là đặc điểm của tình yêu. Tình yêu cũng như những con sóng , người ta chỉ nhìn thấy những con sóng ngày đêm vỗ vào bờ. Nhưng sóng biển không chỉ có những con sóng hiện hữu như vậy mà có cả những con sóng âm ỉ dưới lòng đại dương sâu thẳm:

Đây là khổ thơ với số câu thơ nhiều nhất trong bài. Cũng như sóng thì tình yêu không chỉ nhìn thấy qua bên ngoài mà còn tận trong đáy tâm hồn người phụ nữ mà chỉ có ai tinh tế mới cảm nhận được. Tình cảm lứa đôi thường được thể hiện bằng nhiều trạng thái tình cảm và nỗi nhớ là tình cảm tiêu biểu nhất:

Trong thơ ca thì tình yêu có những nỗi nhớ rất riêng biệt. Ta cũng có thể thấy nỗi nhớ tình yêu xuất hiện rất nhiều trong thơ ca, qua câu thơ của Hàn Mặc Tử : ” Khi xa cách không gì bằng thương nhớ”

Hay trong” truyện Kiều ” của Nguyễn Du:

Xuân Quỳnh đã rất khéo léo dùng phép nhân hoá để khẳng định dù con sóng ở đâu cũng luôn nhớ tới bờ ngày đêm thao thức không ngủ được. Con sóng ngày đêm không ngủ được chính là nỗi nhớ da diết, rạo rực của người con gái khi yêu. Nỗi nhớ chiếm lĩnh cả không gian và thời gian, và cả trong những giấc mơ:

Nỗi nhớ trong thơ Xuân Quỳnh được diễn tả một cách độc đáo và sáng tạo .Dù ở không gian nào “trên mặt nước” hay “dưới lòng sâu” hay thời gian nào “ngày” hay “đêm” sóng vẫn nhớ bờ. Phải chăng tình yêu là như thế ? Nhớ cả ngày lẫn đêm. Nỗi nhớ đó mãnh liệt da diết khôn nguôi. Nhà thơ Xuân Quỳnh đã vô cùng tinh tế khi sử dụng hình ảnh so sánh: sóng nhớ bờ bất kể ngày đêm thì em nhớ anh cả đêm lẫn ngày. Tác giả sử dụng từ “lòng” rất tinh tế với tình cảm của người phụ nữ trong tình yêu. Bởi lòng là nơi thầm kín chứa đựng những tâm tư tình cảm. Tình yêu của người con gái khi yêu là một tình yêu cháy bỏng, chân thành tuyệt đối, với sự gắn bó thủy chung:

Điệp từ ” dẫu ” kết hợp với với nghệ thuật đối “bắc” – “nam” , “xuôi” – “ngược”. Thường thì ta hay nói ” xuôi Nam”,” ngược Bắc” nhưng Xuân Quỳnh đã nói ngược lại qua đó ta thấy được tình yêu không theo quy luật cụ thể nào, có thể là đi ngược lại với thực tế. Bởi vậy người con gái khi đang yêu cho dù muôn vàn khó khăn cách trở thì vẫn có thể vượt qua, một lòng son sắt thủy chung với người mình yêu thương. Chính tình yêu mãnh liệt ấy như là nguồn động lực để nhà thơ tin tưởng vào tình yêu của chính mình. Như những con sóng kia mãi vỗ vào bờ. Đoạn thơ là những suy nghĩ trăn trở đi kèm với đó là những khát khao cháy bỏng của người con gái trong tình yêu. Tác giả đã không chỉ thành công trong nội dung mà còn thành công trong nghệ thuật với thể thơ năm chữ truyền thống, cách ngắt nhịp gieo vần độc đáo giàu sức liên tưởng, xây dựng hình tượng ẩn dụ, giọng thơ tha thiết, trìu mến. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo kiểu đan xen giữa “sóng” -“bờ”, “anh”-“em” góp phần làm nên đặc sắc của bài thơ.

Khép lại hai khổ thơ nhưng lại mở ra trong lòng người đọc bao suy ngẫm. Đoạn thơ trên nói riêng và bài thơ “Sóng” nói chung thể hiện khát vọng nồng nàn, sâu sắc thủy chung của người con gái khi yêu, một tình yêu vừa mang tính dân tộc vừa mang tính nhân văn sâu sắc. Đồng thời tác giả cũng thể hiện được vẻ đẹp của người phụ nữ đang yêu qua hình tượng sóng. Sống là để yêu thương vậy nên hãy sống hết mình, cháy hết mình trong tình yêu để cuộc sống này không vô nghĩa.

Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Bức Tranh Tứ Bình Trong Bài Thơ Việt Bắc Dàn Ý + 19 Bức Tranh Tứ Bình Việt Bắc (Sơ Đồ Tư Duy)

Dàn ý bức tranh tứ bình Việt Bắc

a) Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Tố Hữu: là một nhà thơ lớn, một nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông luôn phản ánh những chặng đường đấu tranh gian khổ song cũng nhiều thắng lợi của dân tộc.

– Giới thiệu bài thơ Việt Bắc: là bài thơ xuất sắc của Tố Hữu tổng kết về cuộc kháng chiến anh hùng của dân tộc, là lời tri ân sâu nặng về tình nghĩa cách mạng.

– Bức tranh tứ bình được xem là những vần thơ tuyệt bút trong bài thơ Việt Bắc.

b) Thân bài: Phân tích bức tranh tứ bình thiên nhiên Việt Bắc

* Khái quát chung về bài thơ Việt Bắc

– Hoàn cảnh sáng tác: nhân sự kiện chiến dịch Điện Biên phủ thắng lợi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu từ Việt Bắc đến thủ đô, Tố Hữu đã viết bài thơ này.

– Những câu thơ trong bức tranh tứ bình là lời của người ra đi gửi đến người ở lại.

– Hai câu thơ đầu của đoạn thơ là lời ướm hỏi của người ra đi băn khoăn về tình cảm ở lại với mình để từ đó giãi bày tâm tư, nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc.

* Luận điểm 1: Bức tranh mùa đông

– “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”: sử dụng bút pháp chấm phá: nổi bật trên nền xanh rộng lớn của núi rừng là màu đỏ của hoa chuối (màu đỏ hoa chuối gợi liên tưởng đến hình ảnh ngọn đuốc xua đi cái lạnh của của núi rừng mùa đông) và màu vàng của những đốm nắng.

– “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”: hình ảnh tia nắng ánh lên từ con dao gài thắt lưng gợi dáng vẻ khỏe khoắn, lớn lao của người lao động, với tâm thế làm chủ thiên nhiên, cuộc sống.

* Luận điểm 2: Bức tranh mùa xuân

– “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”: màu trắng tinh khôi của hoa mơ tràn ngập không gian núi rừng, thiên nhiên tràn đầy nhựa sống khi xuân về.

– Người lao động hiện lên với vẻ đẹp tài hoa, khéo léo và cần mẫn: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”, “chuốt từng sợi giang”: hành động chăm chút, tỉ mỉ với từng thành quả lao động của mình.

* Luận điểm 3: Bức tranh mùa hạ

– “Ve kêu rừng phách đổ vàng”: toàn bộ khung cảnh thiên nhiên như đột ngột chuyển sang sắc vàng qua động từ “đổ”

Có thể liên tưởng màu vàng hòa quyện với tiếng ve kêu tưng bừng, đầy sức sống

Cũng có thể chính tiếng ve đã đánh thức rừng phách nở hoa.

– “Nhớ cô em gái hái măng một mình”: “cô em gái” – cách gọi thể hiện sự trân trọng, yêu thương của tác giả với con người Việt Bắc, hình ảnh cô gái hái măng một mình thể hiện sự chăm chỉ, chịu thương chịu khó của con người Việt Bắc.

* Luận điểm 4: Bức tranh mùa thu

– “Rừng thu trăng rọi hòa bình”: ánh trăng nhẹ nhàng chiếu sáng núi rừng Việt Bắc, đó là ánh sáng của “hòa bình”, niềm vui và tự do.

– Con người say sưa cất tiếng hát, mộc mạc, chân thành, có tấm lòng thủy chung, nặng ân tình.

* Đánh giá chung:

– Nêu cảm nhận chung về bức tranh tứ bình: Nghệ thuật tứ bình tạo sự cân đối hài hòa và có tác dụng khắc họa toàn diện vẻ đẹp của đối tượng, bốn bức tranh trên tôn lên giá trị của nhau, không thể tách riêng, chúng là bức tranh tuyệt sắc có sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên.

c) Kết bài

– Khái quát lại những nét nghệ thuật đặc sắc và phong cách thơ Tố Hữu: tính dân tộc đậm đà (thể thơ lục bát, kết cấu đối đáp trong văn học dân gian, ngôn ngữ giản dị, hình ảnh thơ gần gũi, giọng thơ thiết tha.)

– Tổng kết giá trị nội dung toàn bài thơ: là khúc hùng ca và khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.

…………………..

Sơ đồ tư duy bức tranh tứ bình Việt Bắc Bức tranh tứ bình Việt Bắc – Mẫu 1

Nền văn học Việt Nam đã ghi danh nhiều tác giả với những cống hiến quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau lại có những dấu mốc văn học khác nhau. Trong đó, không thể không nhắc đến tác giả Tố Hữu – một nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam, với hình ảnh người lính anh dũng cùng tình cảm gắn bó sâu nặng với đồng bào Việt Bắc, ông đã mang đến cho bạn đọc một góc nhìn khác vô cùng trữ tình về người chiến sĩ trong thời chiến thông qua bài thơ Việt Bắc. Nổi bật trong bài thơ là những hồi ức của người ra đi về bức tranh tứ bình Việt Bắc:

Mười câu thơ là hình ảnh đan xen giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc trong tâm trí của người ra đi. Mở đầu, người ra đi khẳng định tình cảm của mình dành cho những người ở lại:

Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”, câu thơ thứ hai là tự trả lời. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”, mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ.

Sau khi khẳng định nỗi nhớ của mình dành cho thiên nhiên và con người Việt Bắc, người ra đi cụ thể hóa nỗi nhớ ấy qua từng mùa trong năm, mở đầu là mùa đông:

Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi” – gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy. Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Kết thúc mùa đông, mùa xuân hiện ra với vẻ tinh khôi:

Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. “Trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.

Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:

Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ mạnh “đổ” diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu thương chịu khó của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.

Khép lại bức tranh tứ bình là mùa thu thanh bình, êm ả:

Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.

Cả đoạn trích như một bản nhạc nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc tình ca và khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về những con người kháng chiến anh hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, hào hùng ấy nhà thơ đã bộc lộ được những tình cảm tha thiết, sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, nghĩa tình đồng bào. Qua đó, tác giả cũng nhắn nhủ đến người đọc đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang sử thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những trang sử thấm đượm tình cách mạng, lòng yêu nước sâu sắc.

Cảm nhận bức tranh tứ bình Việt Bắc – Mẫu 2

Với giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, những áng thơ văn Tố Hữu để để lại trong lòng người đọc nhiều xúc cảm lắng sâu. “Việt Bắc” là một bài thơ nổi tiếng tác giả viết năm 1954. Cảm xúc, hình ảnh, nghĩ suy trong tác phẩm mà nhà thơ gửi tới người đọc khiến cho ta càng thêm yêu mến và trân quý tâm hồn, tài năng Tố Hữu. Bức tranh tứ bình trong bài cũng là một nét đặc sắc đã lưu lại trong tâm trí người đọc nhiều ấn tượng.

Nỗi thơ thiết tha bồi hồi ấy đọng lại trong bức tranh tứ bình về con người và cảnh vật thiên nhiên Tây Bắc, trước hết đó là sự phác họa những nét cảnh mùa đông:

Một mùa đông rực rỡ và ấm nồng nơi núi rừng Tây Bắc đã được nhà thơ phác họa một cách sinh động. Đó là mùa đất trời nơi đây tràn ngập sắc “đỏ”, “tươi” rực rỡ của hoa chuối rừng trên nền xanh trầm tĩnh của cỏ cây rừng lá, của ánh nắng ấm áp lửng lơ, tràn ngập khắp không gian khoáng đạt. Trên cái nền thơ mộng ấy, con người Việt Bắc xuất hiện với vẻ đẹp khỏe khoắn trong tư thế lao động: “dao gài thắt lưng”. Hai từ “nắng ánh” khiến lời thơ Tố Hữu như bừng sáng, góp phần làm nổi bật hơn vẻ đẹp của con người trong lao động, những con người đang trong tư thế vươn lên đỉnh đèo. Mùa đông trong thơ xưa thường diễn tả cái tiêu điều, hiu quạnh, những cơn gió lạnh và một bầu không khí man mác buồn. Đông Hồ từng viết:

Hay như nhà thơ Ngô Chi Lan từng bày tỏ:

Cái buồn, cái sầu ấy ta lại không bắt gặp ở mùa đông trong thơ Tố Hữu. Nhà thơ viết về mùa đông Tây Bắc lại thắm tươi và nồng ấm sắc màu, sức sống. Con người trong cảnh sắc ấy khỏe khoắn và chủ động.

Đó là cặp câu thơ lục bát tiếp theo nhà thơ miêu tả về thiên nhiên và con người Việt Bắc khi xuân về. Sự dịu dàng, trong trẻo, tinh khôi của sắc trắng hoa mơ “nở trắng rừng” đã làm lòng người đọc biết bao xao xuyến. Trên nền cảnh ấy, con người hiện ra trong công việc của cuộc sống giản dị đời thường. Động từ “chuốt” đã tinh tế làm toát lên vẻ tài hoa, cần mẫn, khéo léo của con người lao động nơi đây. Sự thanh tao thơ mộng của đất trời, sự giản dị, khéo léo của con người cùng hòa điệu làm ý thơ Tố Hữu càng thêm nổi bật và ấn tượng.

Nhà thơ Bàng Bá Lân từng bày tỏ cảm nghĩ của mình qua những dòng thơ trong “Trưa hè”:

Mùa hè với Bàng Bá Lân là vậy, bình yêu mà và cùng đáng nhớ. Còn với Tố Hữu, mùa hè Việt Bắc là:

Sắc màu tươi sáng của rừng phách và âm thanh rộn rã của tiếng ve được nhà thơ tái hiện chân thực. Từ “đổ” trong câu thơ được xem như nhãn tự bộc lộ trọn vẹn ý nghĩ của nhà thơ. Phải chăng, nhà thơ đang muốn nói đến sự tương quan kỳ diệu của thanh âm và màu sắc đã khiến cho cảnh vật nơi đây như có linh hồn, có sự giao cảm mạnh mẽ. Người Việt Bắc hiện ra trong một vẻ gì đó thật lặng lẽ nhưng vẫn rất hiền hòa như một điểm nhấn lắng sâu giữa không khí sôi động của thiên nhiên đất trời mùa hạ.

Được nhắc đến cuối cùng, nhưng cách thể hiện của nhà thơ về mùa thu vẫn khiến người đọc không khỏi ấn tượng và lưu luyến. Một Việt Bắc trong trẻo. Một Việt Bắc thanh tịnh dưới ánh trăng. Đó là những gì ta cảm nhận được qua hai câu thơ:

Trên cái nền hiền hòa của thiên nhiên ấy con người hiện ra với vẻ thắm thiết ân tình trong tiếng hát thân thương cũng là tiếng lòng thủy chung Cách mạng đượm tình sâu nghĩa thẳm.

Để có thể phác họa nên bức tranh tứ bình của cảnh sắc thiên nhiên và con người Việt Bắc sống động như vậy, nhà thơ đã vận dụng khéo léo đồng thời bút pháp cổ điển và hiện đại. Sự tinh tế và tài hoa ấy đã góp phần giúp cho bức tranh tứ bình trong “Việt Bắc” có một vị trí đặc biệt trong lòng người đọc bao thế hệ, góp phần làm đa dạng hơn những bài thơ, áng văn viết về “bức tranh tứ bình”.

Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 3

Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình – nơi đã in sâu bao kỷ niệm của một thời kỳ cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi.

Và cứ thế sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi “Ta – mình” của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết “Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.

Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã “Thủ đô gió ngàn” về với “Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình”. Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân – hạ – thu – đông.

Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:

Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”, câu thơ thứ hai là tự trả lời, điệp từ “ta” lặp lại bốn lần cùng với âm “a” là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”, mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, câu tám dành cho nhớ người. Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.

Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:

Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi” – gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.

Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” . Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn.Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do “Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta”. Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy:

Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. “Trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ “nở” làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:

Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.

Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:

Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ “đổ” là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.

Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.

Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát:

Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:

Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.

Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.

Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.

Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 4

Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng tiêu biểu của phong trào thơ ca Việt Nam trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Những tác phẩm của ông như một vũ khí nhằm chống lại quân xâm lược, động viên, khích lệ tinh thần yêu nước của nhân dân.

Bài thơ “Việt Bắc” được tác giả viết trong những ngày tác giả đóng quân ở vùng Việt Bắc. Bài thơ thể hiện tình quân dân gắn bó, thiết tha sâu sắc, khi chia tay kẻ ở người đi biết bao lưu luyến, lúc chia tay được tác giả viết lên thành những vần thơ nhiều cảm xúc, nghẹn ngào tâm tư tình cảm.

Xuyên suốt trong bài thơ là những dòng tâm sự, thể hiện tình cảm giữa mình và ta, giữa quân và dân chứa chan, sâu sắc. Tác giả Tố Hữu là người đã tham gia trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Nên những vần thơ của ông vô cùng giản dị, mộc mạc gần gũi, khi đọc bài thơ lên ta có thể cảm nhận được sự thiêng liêng, nặng trĩu tâm tư trong tình cảm của người chiến sĩ

Bài thơ Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát truyền thống gần gũi, với người nghe. Trong bài thơ nghệ thuật so sánh, ẩn dụ được tác giả Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt tài tình thể hiện sự tinh tế trong phong cách ngôn ngữ của tác giả. Đặc biệt bài thơ còn xúc động lòng người khi tác giả phác họa lên một bức tranh tứ bình về thiên nhiên con người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp.

“Ta” và “mình” thể hiện tình quân dân, nhưng với ngôn ngữ mộc mạc, thể hiện sự gắn bó như người thân trong một gia đình, như những người bạn tri kỷ lâu năm. Nay phải cách xa biết bao tâm sự, bao nhiêu lưu luyến không nỡ rời đi

Tác giả Tố Hữu đã vô cùng khôn khéo khi dẫn dắt người đọc tới những cảnh đẹp vô cùng nên thơ lãng mạn của núi rừng Việt Bắc, vẽ lên một mùa đông ấm áp, nhưng ngập tràn tình yêu thương, niềm tin của những con người phúc hậu nơi đây.

Thiên nhiên Việt Bắc mở ra khiến cho người đọc ngẩn ngơ, bởi vẻ đẹp rất trữ tình của núi rừng Tây Bắc. Những bông hoa chuối đỏ tươi nở lên giữa mùa đông lạnh giá làm cho khung cảnh thiên nhiên tuy lạnh giá nhưng vô cùng sinh động, ấm áp lòng người bởi sắc đỏ của hoa chuối rừng chính nét quyến rũ rất riêng của núi rừng Việt Bắc. Hình ảnh người con gái đi hái măng, lấy nấm với con dao sắc nhọn là vũ khí phòng thân, công cụ làm việc thể hiện sự sinh động của con người trong công việc thường nhật của mình

Đồng thời ánh nắng mùa đông là cho không khí trở nên ấm áp hơn bao giờ hết, không phải là màu u ám, ảm đạm mà chúng ta thường thấy trong những bài thơ khác miêu tả về mùa đông. Mùa đông trong thơ của Tố Hữu vẫn đẹp, vẫn sinh động hấp dẫn lòng người hơn bao giờ hết.

Trong hai câu thơ này tác giả đã linh hoạt chuyển đổi thời gian từ mùa đông sang mùa xuân. Từ hình ảnh hoa chuối rừng đỏ tươi sang sắc hoa mơ trắng trong tinh khiết, thể hiện không khí mùa xuân đang ngập tràn trên mảnh đất Tây Bắc.

Hoa mơ chính là dấu hiệu báo trước khi mùa xuân tới, bởi loại hoa này thường chỉ ra vào mùa xuân, giống như hoa đào và hoa mai. Hình ảnh một rừng hoa mơ trắng thơm ngát quyến rũ, làm say đắm lòng người được gợi mở trong câu thơ làm cho người đọc ngây ngất trước cảnh đẹp của thiên nhiên nơi đây. Hình ảnh người con gái chuốt từng sợi giang để làm dây gói bánh chưng, bánh tét, làm nón lá khiến cho không khí mùa xuân càng gần gũi ấm áp hơn bất kỳ lúc nào

Hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp nhưng luôn gắn liền với những con người nơi đây. Khi tác giả Tố Hữu nhớ về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc tác giả luôn nhớ về những con người, những hoạt động của con người nơi đây thể hiện tình cảm sâu đậm của tác giả với mảnh đất gắn bó suốt 15 năm.

Sang mùa hè tiếng ve kêu là dấu hiệu của mùa hè đã đến. Mùa hè là mùa sôi động, nó khác hẳn với sự ấm áp của mùa đông, sự tinh khôi của màu xuân, khi mùa hè tới rừng núi Việt Bắc râm ran tiếng ve kêu, màu vàng của hổ phách kết hợp với tiếng ve khiến cho thiên nhiên nơi đây. Tiếng ve đã phá vỡ sự tĩnh lặng, thể hiện sự chuyển biến thời gian mạnh mẽ.

Bức tranh thiên nhiên về mùa hè của núi rừng Việt Bắc sáng rực màu vàng của hổ phách, huyên náo tiếng ve kêu. Ở mỗi bức tranh tác giả luôn kết hợp thiên nhiên với bóng dáng con người, thể hiện sự kết hợp khôn khéo giữa con người và thiên nhiên nơi đây.

Giữa không gian bao la của núi rừng Việt Bắc tác giả đã khôn khéo kết hợp thiên nhiên có hình ảnh người con gái hái măng rừng, một hành động quen thuộc, gần gũi nhưng được Tố Hữu vẽ lên thật dịu dàng, nên thơ.

Hình ảnh mùa thu trên núi rừng Việt Bắc thật dịu dàng, nên thơ trữ tình hình ảnh ánh trăng hòa bình, sáng trong nên thơ thể hiện sự tròn đầy, chung thủy trước sau như một của người dân nơi đây với cách mạng, với những chiến sĩ anh dũng đã hy sinh thân mình để bảo vệ dân tộc, bảo vệ mảnh đất thân yêu này.

Qua đoạn thơ này ta thấy tác giả Tố Hữu là người vô cùng sâu sắc, tinh tế trong ngôn ngữ cũng như trong quan sát. Ông đã khéo léo gợi lên bức tranh tứ bình thiên nhiên, con người Việt Bắc vô cùng tươi đẹp khiến người đọc ám ảnh khó quên.

Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 5

Nhắc đến những nhà văn, nhà thơ cách mạng trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, ta không thể không nhắc đến Tố Hữu với một giọng thơ đầy tính chiến đấu, đầy lý tưởng, một phong cách thơ trữ tình chính trị. Tuy nhiên, trong những bài thơ ấy vẫn chất chứa những hình ảnh đậm chất trữ tình, giàu chất thơ, mượt mà và tươi sáng. Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc chính là minh chứng tiêu biểu:

Đoạn thơ là một bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa và hàm chứa trong đó một nỗi nhớ nhung da diết cùng tấm lòng thủy chung của tác giả nói riêng và người cán bộ nói chung dành cho Việt Bắc:

Hai câu thơ là lời hỏi và kể của người ra đi, muốn biết lòng người ở lại thế nào và tự bộc lộ tấm lòng của mình. Điệp ngữ “ta về” mở đầu cho hai câu thơ như đặt ra những nỗi niềm của người từ giã. Cái đẹp của câu thơ là hình ảnh “hoa cùng người”, phải chăng con người cũng là một bông hoa trong vườn hoa Việt Bắc. Hình ảnh tạo nên nét hài hòa giữa thiên nhiên và con người, hoa và người khi hòa vào nhau, khi tách biệt để tôn lên vẻ đẹp của nhau. Tiếp sau hình ảnh hoa và người là bức tranh bốn mùa Việt Bắc được vẽ ra hết sức chân thật cùng những màu sắc tươi tắn và âm thanh rộn ràng:

Mùa đông với màu xanh tha thiết, ngút ngàn của núi rừng trùng điệp hiện ra đầu tiên. Tác giả khắc họa mùa đông trước có lẽ bởi vì khi người cách mạng đến đây cũng vào mùa đông của đất nước và cũng chính thời điểm ấy sau mười lăm năm, người cách mạng cũng từ biệt Việt Bắc – cái nôi cách mạng Việt Nam.

Giữa cái nền xanh tươi của rừng thẳm nổi bật hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi, làm cho núi rừng không lạnh lẽo hoang vu mà trở nên ấm áp lạ thường. Những bông hoa chuối ẩn trong sương như những ngọn đuốc hồng soi sáng chặng đường mà ta từng bắt gặp trong bài thơ Tây Tiến: “Mường lát hoa về trong đêm hơi”. Cái “đỏ tươi” của hoa chuối như xóa nhòa đi sự lạnh lẽo cô độc của mùa đông lạnh lẽo của núi rừng, như chất chứa, tiềm ẩn sức sống của đất trời. Sự đối lập trong màu sắc nhưng lại hài hòa trong cách diễn đạt khiến mùa đông nơi đây mang hơi hướng của mùa hè ấm áp trong thơ Nguyễn Trãi:

Giữa thiên nhiên ấy, nét đẹp của con người Tây Bắc hiện lên với một nét độc đáo rất riêng:

“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Người Việt Bắc đi rừng bao giờ cũng gài một con dao ở thắt lưng để phát quang những chướng ngại và đề phòng thú dữ. Ở đây tác giả không miêu tả gương mặt hay thần thái mà miêu tả ánh sáng phản chiếu nơi lưỡi dao gài ở thắt lưng. Ánh nắng mặt trời chiếu xuống làm cho con dao lấy lánh ánh sáng tạo nên hình ảnh con người thật đẹp không thể nào quên, tưởng chừng con người chính là nơi hội tụ của ánh sáng, vừa lung linh vừa rực rỡ. Con người được đặt giữa “đèo cao, nắng ánh”, ở vị trí trung tâm giữa núi rừng Tây Bắc, vượt lên cả không gian với hình ảnh lớn lao, làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất nước với hình ảnh kì vĩ, lớn lao.

Đông qua rồi xuân. Mùa xuân Việt Bắc hiện lên với sắc trắng của hoa mơ làm bừng sáng cả khu rừng:

Nhắc đến mùa xuân, người ta lại nhắc đến thời điểm khí hậu mát mẻ, cỏ cây hoa lá vì thế tràn đầy sức sống, đâm chồi, nảy lộc xanh non. Ngày xuân của Việt Bắc được Tổ Hữu nhìn với cái nhìn rất độc đáo: “mơ nở trắng rừng”. Nghệ thuật đảo ngữ “trắng rừng” sử dụng từ “trắng” với vai trò động từ chứ không còn là tính từ chỉ màu sắc. Thêm vào đó, động từ “nở” như sự lan tỏa của sắc trắng, lấn át mọi sắc xanh của lá rừng, tạo nên một không gian trong lành, dịu mát của hoa mơ, khiến bức tranh trở nên thanh khiết hơn, trữ tình hơn.

Giữa cái nền trắng của hoa mơ ấy, nổi bật lên hình ảnh con người lao động cần mẫn, dịu dàng: “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp một cách tự nhiên trong công việc hàng ngày. Động từ “chuối” kết hợp với trợ từ “từng” đã thể hiện bàn tay khéo léo, tỉ mỉ, và tài hoa của người lao động. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Bắc hào hùng nhưng cũng rất hào hoa.

Mùa hè đến, tiếng ve rộn rã vang lên khắp núi rừng:

Âm vang của tiếng ve làm lá phách đổ vàng. Tưởng chừng chỉ cần tiếng ve ngân lên đã làm tiết trời đột ngột chuyển từ xuân sang hè. Câu thơ có nét tương đồng với ý thơ “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng” của Khương Hữu Dụng. Chỉ với một câu thơ mà gợi lên cả sự vận động của thời gian, của cuộc sống. Và trên cái nền vàng của rừng phách ấy, hiện lên hình ảnh thật đáng yêu làm cho bức tranh thêm nên thơ, trữ tình. Đó là hình ảnh: “cô em gái hái măng một mình”, hái măng một mình nhưng không hề cô đơn mà lại toát lên vẻ đẹp của người phụ nữ chịu thương chịu khó. Câu thơ mang nỗi niềm cảm thông và cảm kích người Việt Bắc, mà người đi không bao giờ quên được những tình cảm chân thành ấy.

Rồi mùa thu Việt Bắc hiện lên với ánh trăng thu vời vợi làm cảnh núi rừng Việt Bắc trở nên mơ màng, êm ả đầy không khí thanh bình. Từ giữa đêm trăng thu huyền ảo ấy, những tiếng hát ân tình thủy chung của con người Việt Bắc lại được cất lên làm nồng ấm cả lòng người:

Ở đây không có tin thắng trận, nhưng lại có tiếng hát nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc, là tiếng hát của núi rừng Tây Bắc gắn bó mười lăm năm ròng rã. Tiếng hát “ân tình” khép lại bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người, gợi cho người đi, kẻ ở và cả những độc giả hiện tại có những rung động sâu xa về tình yêu Tổ quốc.

Nếu câu lục nói về cảnh thì câu bát lại nói về người. Cái đẹp của bài thơ là sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc. Phong cảnh Việt Bắc đẹp, nên thơ, trữ tình giàu sức sống như cái nền để làm nổi bật hình ảnh những con người Việt Bắc thật đáng yêu, cần cù, giàu tình nghĩa, thủy chung, son sắt.

Với những nét phác họa đơn sơ, bình dị, bức tranh tứ bình Việt Bắc được vẽ ra với sự hòa quyện giữa cổ điện và hiện đại, giữa con người và thiên nhiên, tất cả tạo nên một bức tranh tổng hòa về thiên nhiên và cuộc sống. Đoạn thơ chính là một nét độc đáo trong phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu mà khi nhắc đến Việt Bắc, người ta lại nhớ ngay đến những tâm hồn hồn hậu, giàu nghĩa tình, thủy chung.

Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 6

“Việt Bắc” – bài thơ lục bát mang tầm vóc một trường ca dài 150 câu thơ, cảm xúc dâng lên mênh mông dào dạt. Bài thơ ra đời vào tháng 10 năm 1054, ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội. Qua bài thơ, Tố Hữu nói lên một cách thiết tha mặn nồng mối tình Việt Bắc, mối tình cách mạng và kháng chiến.

Hai câu thơ đầu là lời hỏi – đáp của “ta”, của người cán bộ kháng chiến về xuôi, ta hỏi mình “có nhớ ta”. Dù về xuôi, dù xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó thiết tha với Việt Bắc: “Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”. Chữ “ta”, chữ “nhớ” được điệp lại thể hiện một tấm lòng thủy chung son sắt. Nỗi nhớ ấy hướng về “những hoa cùng người”, hướng về thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và con người Việt Bắc thân yêu:

Hai chữ “mình – ta” xuất hiện ở tần số cao trong bài thơ, cũng như ở trong hai câu thơ này đã thể hiện một cách rất đẹp tình cảm lứa đôi hòa quyện trong mối tình Việt Bắc, đồng thời làm cho giọng thơ trở nên thiết tha bồi hồi như tiếng hát giao duyên thuở nào. Đó là sắc điệu trữ tình và tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.

Tám câu thơ tiếp theo, mỗi cặp lục bát nói lên một nỗi nhớ cụ thể về một cảnh sắc, một con người cụ thể trong 4 mùa đông, xuân, hè, thu.

Nhớ mùa đông nhớ màu “xanh” của núi rừng Việt Bắc, nhớ màu “đỏ tươi” của hoa chuối như những ngọn lửa thắp sáng rừng xanh. Nhớ người đi nương đi rẫy “dao gài thắt lưng” trong tư thế mạnh mẽ hào hùng đứng trên đèo cao “nắng ánh…”. Con dao của người đi nương rẫy phản quang “nắng ánh” rất gợi cảm:

Màu “xanh” của rừng, màu “đỏ tươi” của hoa chuối, màu sáng lấp lánh của “nắng ánh” từ con dao; màu sắc ấy hòa hợp với nhau, làm nổi bật sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của thiên nhiên Việt Bắc, của con người Việt Bắc đang làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc đời trong kháng chiến. Tố Hữu đã có một cái nhìn phát hiện về sức mạnh tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân ta do cách mạng và kháng chiến mang lại. Người lao động sản xuất thì hào hùng đứng trên “đèo cao” ngập nắng và lộng gió. Đoàn dân công đi chiến dịch thì “bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”. Người chiến sĩ ra trận mang theo sức mạnh vô địch của thời đại mới:

(“Lên Tây Bắc”)

Nhớ ngày xuân Việt Bắc là nhớ hoa mơ “nở trắng rừng”. Chữ “trắng” là tính từ chỉ màu sắc được chuyển từ loại thành bổ ngữ “nở trắng rừng”, gợi lên một thế giới hoa mơ bao phủ khắp mọi cánh rừng Việt Bắc màu trắng thanh khiết mênh mông và bao la. Cách dùng từ tài hoa của Tố Hữu gợi nhớ trong lòng ta câu thơ của Nguyễn Du tả một nét xuân thơ mộng, trinh bạch trong “Truyện Kiều”:

Nhớ “mơ nở trắng rừng”, nhớ người thợ thủ công đan nón “chuốt rừng sợi giang”. “Chuốt” nghĩa là làm bóng lên những sợi giang mỏng mảnh. Có khéo léo, kiên nhẫn, tỉ mỉ mới có thể “chuốt từng sợi giang” để đan thành những chiếc nón, chiếc mũ phục vụ kháng chiến, để anh bộ đội đi chiến dịch có “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người đan nón được nhà thơ nói đến tiêu biểu cho vẻ đẹp tài hoa, tính sáng tạo của đồng bào Việt Bắc. Mùa xuân Việt Bắc thật đáng nhớ:

Nhớ về Việt Bắc là nhớ mùa hè với tiếng ve kêu làm nên khúc nhạc rừng, là nhớ màu vàng của rừng phách, là nhớ cô thiếu nữ đi “hái măng một mình” giữa rừng vầu, rừng nứa, rừng trúc:

Một chữ “đổ” tài tình. Tiếng ve kêu như trút xuống “đổ” xuống thúc giục ngày hè trôi nhanh, làm cho rừng phách thêm vàng. Xuân Diệu cũng có câu thơ sử dụng chữ “đổ” chuyển cảm giác tương tự: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…” (Thơ duyên – 1938). Câu thơ “Nhớ cô em gái hái măng một mình” là câu thơ đặc sắc, giàu vần điệu, thanh điệu. Có vần lưng: “Gái” vần với “hái”. Có điệp âm qua các phụ âm “m”: “măng – một – mình”. Đây là những vần thơ nên họa nên nhạc, tạo nên một không gian nghệ thuật đẹp và vui, đầy màu sắc âm thanh. “Cô em gái hái măng một mình” vẫn không cảm thấy lẻ loi, vì cô đang lao động giữa nhạc rừng, hái măng để góp phần “nuôi quân” phục vụ kháng chiến. Cô gái hái măng là một nét trẻ trung, yêu đời trong thơ Tố Hữu.

Nhớ mùa hè rồi nhớ mùa thu Việt Bắc, nhớ khôn nguôi, nhớ trăng ngàn, nhớ tiếng hát:

Trăng xưa “vàng gieo ngấn nước cây lồng bóng sân”. Trăng Việt Bắc trong thơ Bác Hồ là “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”. Người cán bộ kháng chiến về xuôi nhớ vầng trăng Việt Bắc giữa rừng thu, trăng “rọi” qua tán lá rừng xanh, trăng thanh mát rượi màu “hòa bình” nên thơ. “Ai” là đại từ nhân xưng phiếm chỉ, “nhớ ai” là nhớ về tất cả, về mọi người dân Việt Bắc giàu tình nghĩa thủy chung, đã hy sinh quên mình cho cách mạng và kháng chiến.

Đoạn thơ mang vẻ đẹp một bức tranh tứ bình đặc sắc, đậm đà phong cách dân tộc. Mở đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là mùa đông năm 1946, đến mùa thu tháng 10 – 1954, thủ đô Hà Nội được giải phóng – Tố Hữu cũng thể hiện nỗi nhớ Việt Bắc qua bốn mùa: đông – xuân – hè – thu, theo dòng chảy lịch sử. Mỗi mùa có một nét đẹp riêng dạt dào sức sống: màu xanh của rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối, màu trắng của hoa mơ, màu vàng của rừng phách, màu trắng xanh hòa bình. Thiên nhiên Việt Bắc trong thơ Tố Hữu rất hữu tình, mang vẻ đẹp cổ điển. Con người được nói đến không phải là ngư, tiều, canh, mục mà là người đi nương đi rẫy, là người đan nón, là cô em gái hái măng, là những ai đang hát ân tình thủy chung. Tất cả đều thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của đồng bào Việt Bắc: cần cù, làm chủ thiên nhiên và làm chủ cuộc đời trong lao động, kiên nhẫn, khéo léo, tài hoa, trẻ trung lạc quan yêu đời, ân tình thủy chung với cách mạng và kháng chiến.

Một giọng thơ ngọt ngào, tha thiết bồi hồi cứ quyện lấy tâm hồn người đọc. Nỗi nhớ được nói đến trong “Việt Bắc” cũng như trong đoạn thơ này cho thấy một nét đẹp trong phong cách thơ Tố Hữu: chất trữ tình công dân và tính dân tộc, màu sắc cổ điển và tính thời đại được kết hợp một cách hài hòa.

Hình tượng đẹp, phong phú, gợi cảm. Một không gian nghệ thuật đầy sức sống, với những đường nét, âm thanh, màu sắc, ánh sáng, cấu trúc cân xứng hài hòa, để lại trong tâm hồn ta một ấn tượng sâu sắc như Bác Hồ đã viết: “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay…”

Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 7

Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu cho nền văn Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà thơ với tư tưởng cộng sản, một nhà thơ lớn, thơ ông gắn liền với cách mạng. Tố Hữu còn gắn bó với dân sâu sắc. Vì vậy mà trong các tác phẩm của ông luôn gần gũi với nhân dân. Ông để lại một sự nghiệp văn chương phong phú, giàu giá trị với phong các trữ tình – chính trị sâu sắc đậm đà bản sắc dân tộc. Tiêu biểu là bài Việt Bắc. Có thể nói, kết tinh của tác phẩm được lắng đọng trong mười câu thơ diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với cảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc hòa quyện thành bức tranh tứ bình.

Việt Bắc được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10 năm 1954 ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, các cơ quan trung ương Đảng và chính quyền từ Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong những cán bộ sống gắn bó với Việt Bắc nhiều năm, nay từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết trong buổi chia tay lưu luyến ấy. Và có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc là những ấn tượng không phai về sự hòa quyện của người dân với thiên nhiên núi rừng cao đẹp.

Mở đầu đoạn thơ là câu hỏi tu từ. Nhưng hỏi chỉ là cái cớ để thể hiện tâm tư tình cảm, nhấn mạnh nỗi nhớ da diết của người về Thủ đô. Hai câu đầu là lời hỏi đáp của ta của người cán bộ kháng chiến về xuôi. Ta hỏi mình có nhớ ta. Người cách mạng về xuôi hỏi người Việt Bắc để bộc lộ tâm trạng của mình là dù có ở nơi xa xôi , dù có xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó với Việt Bắc. Chữ “ta” và “nhớ” được điệp đi điệp lại thể hiện lòng thủy chung son sắc. Nỗi nhớ hướng về “những hoa cùng người” hướng về thiên nhiên , núi rừng và con người Việt Bắc. “Hoa” là sự kết tinh của hương sắc, còn “người” là kết tinh của đời sống xã hội. Xét cho cùng, “người ta là hoa của đất”. Hoa và người được đặt cạnh nhau càng làm tôn lên vẻ đẹp cho nhau, làm sáng lên cả không gian núi rừng, Việt Bắc trùng điệp.

Những câu thơ tiếp theo tái hiện cụ thể, chân thực vẻ đẹp bốn mùa của chiến khu. Cảnh và người hòa quyện đan xen vào nhau. Cứ một câu thơ lục tả cảnh thì lại có một câu thơ bát tả người. Mỗi mùa có một vẻ đẹp nét đặc trưng riêng tạo thành một bức tranh tứ bình ngập tràn ánh sáng , màu sắc , đường nét âm thanh vui tươi, ấm áp.

Mở đầu cho bức tranh tứ bình lại là khung cảnh mùa Đông. Chúng ta vẫn luôn thắc mắc rằng tại sao tác giả không diễn tả mùa theo trật tự quy luật tự nhiên là Xuân, Hạ, Thu, Đông lại là mùa Đông trước. có lẽ vì, thời điểm tác giả sáng tác bài thơ này là vào tháng 10 năm 1954, đó là thời điểm của mùa đông nên khung cảnh mùa đông việt bắc tạo cảm hứng để ông viết về mùa đông trước.

Nhớ về mùa đông Việt Bắc, tác giả không nhớ về cái giá buốt, lạnh lẽo, âm u. Tố Hữu nhớ đến những ngày màu đông rực rỡ, nắng ấm. Màu xanh bạt ngàn của núi rừng Việt Bắc. nó giống như màu nên làm nổi bật lên màu đỏ tươi của hoa chuối. Hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi” – hình ảnh đặc trưng của rừng núi Việt Bắc vào mùa đông, nó giống như ngọn đuốc, đốm lửa rực rỡ thắp sáng bức tranh mùa đông, xua tan đi cái u tối, lạnh lẽo của núi rừng nơi đây. Cả không gian như được sưởi ấm. Tô điểm thêm nét đẹp đặc trưng của mùa Đông Việt Bắc. Đằng sau bức tranh mùa đông ấy, ẩn hiện lên hình ảnh người nông dân lao động leo lên đèo cao để đi làm nương rẫy. Một hình ảnh khỏe khoắn của người lao động như được tỏa sáng, rực rỡ hơn. Tố Hữu sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, ông không dùng “ánh nắng” là một danh từ mà lại dùng “nắng ánh” – một động từ, nhằm làm cho hình ảnh người lao động đẹp và rực rỡ hơn.

Kết thúc mùa đông lạnh giá, Tố Hữu đưa chúng ta đến với mùa Xuân ấm áp vui hơn

Mùa xuân – hình ảnh bông hoa “mơ nở trắng rừng” là loài hoa đặc trưng của mùa xuân nơi Việt Bắc. Hoa nở trắng xóa cả khu rừng. Màu không phải màu trăngs điểm như trong bài Truyện Kiều của Nguyễn Du “cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Đó là màu trắng tinh khiết, tinh khôi khoác lên cho núi rừng Việt Bắc. Và đằng sau mùa xuân tinh khiết, nhẹ nhàng, thơ mộng ấy. Nhà thơ nhớ đến những người đan nón. Hình ảnh “người chuốt từng sợi giang” đã làm nổi bật đức tính cần cù, tỉ mỉ, khéo léo, tài hoa của những con người nơi đây. Họ đã làm ra những sợi giang nõn nà để đan thành những chiếc nón. Đó là vật để che nắng che mưa không thể thiếu của người dân nơi đây và đó cũng có thể là thức quà tặng dành cho những người mà họ yêu thương.

Khi âm thanh của tiếng ve vang lên, đó là âm thanh đặc trưng của mùa hè. Rừng phách đột ngột đổ vàng. Đó là sự chuyển biến đột ngột làm cho người ta có cảm giác khi tiếng ve vang lên thì những lá cây của cây phách từ lá màu xanh chuyển sang màu vàng. Cả không gian Việt Bắc như được nhuộm sắc vàng rực rỡ. Thời gian mang đến cho ta màu sắc và ẩn sâu trong cái sắc vàng rực rỡ ấy là hình ảnh cô em hái măng . Ở đó, toát lên được sự cần mẫn, cần cù siêng năng , chăm chỉ . Măng là thứ rau để nuôi sống bộ đội cách mạng. Và hình ảnh cô gái hái măng một mình cho thấy được sự yên tĩnh, thư thái. Câu thơ làm ta liên tưởng đến câu:

“Trám bùi để rụng, măng mai để già”

Nếu như đặc trưng của mùa đông là hoa mơ, mùa xuân là hoa chuối, mùa hè là hoa phách vàng. Vậy còn mùa thu là hoa gì? Mùa thu không có hoa mà mùa thu có người. mà con người là loài hoa đẹp nhất. “Người ta là hoa của đất”.

Khác với nền văn học trung đại, một nền văn học mà các nhà văn lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn cho cái đẹp thì nền văn học hiện đại lại lấy con người làm tiêu chuẩn cho cái đẹp. Điều này được thể hiện rất rõ ở câu thơ tả mùa thu của Tố Hữu.

Nếu câu thơ lục là câu thơ tả hình ảnh ánh trăng thì câu thơ bát có “tiếng hát ân tình”. Cặp đôi “trăng – nhạc” góp phần tạo nên vẻ đẹp lung linh, lãng mạn. Đất nước ta lúc ấy đang trong thời kì kháng chiến khốc liệt nhưng ở nhwunxg câu thơ của Tố Hữu ta chỉ thấy được sự bình yên, hòa bình, êm ả và ân tình thủy chung

Đoạn thơ dạt dào tình thương, tha thiết nỗi nhớ bồi hồi thấm sâu vào cảnh và người. Kẻ ở người về thì “ta nhớ mình” “mình nhớ ta”. Tình cảm ấy vô cùng tha thiết, thiêng liêng, biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng đi qua nhưng ân tình thủy chung cách mạng giữa Việt Bắc với con người về xuôi vẫn luôn thủy chung son sắc, in đậm trong lòng người.

Tóm lại, với 10 câu thơ , Tố Hữu đã hài hòa trong câu lục tả cảnh , câu bát tả người, Và sự hài hòa ấy tạo nên một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp , đầy màu sắc. Qua đó, Tố Hữu bộc bạch được tình cảm của mình với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và sự thủy chung son sắc với những con người chất phát, hiền hòa nơi đây. Sự yêu mến và tự hào của Tố Hữu với Việt Bắc . Và ở mỗi bản thân chúng ta, cần phải biết đến những địa danh của Đất Nước mình, yêu mến và luôn tự hào về vẻ đẹp diệu kỳ của nó. Điều quan trọng hơn hết, chúng ta cần ghi nhớ công ơn to lớn của những chiến sĩ đã hi sinh ra sức chiến đấu dựng xây khiến chúng ta có được một đất nước yên bình , xinh đẹp như ngày hôm nay.

Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 8

Sống ân nghĩa, thủy chung chính là một lối sống văn hóa đẹp đẽ từ ngàn đời nay của dân tộc ta. Nét đẹp đó đã được lưu giữ trong rất nhiều tác phẩm văn học khác nhau và một trong số đó ta không thể không kể đến bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu:

Việt Bắc không đơn thuần chỉ là một địa danh, là một nơi để chiến đấu mà còn là nơi chứa đựng đầy những kỉ niệm, đầy tình người tha thiết, sâu nặng. Bởi vậy, trong khoảnh khắc chia tay bất cứ ai cũng bồi hồi xúc động, nhớ về những kỉ niệm đã qua. Kỉ niệm đó là lớp học, là những ngày tháng liên hoan những năm kháng chiến và còn một nỗi nhớ khác chính là về thiên nhiên và con người Việt Bắc.

Thiên nhiên Việt Bắc trong bức tranh tứ bình hiện lên vô cùng cô đọng, hàm súc, đại diện cho bốn mùa. Mùa đông là mùa đầu tiên xuất hiện trong bức tranh tứ bình:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Khi đọc câu thơ lên, bất chợt trong lòng mỗi người sẽ không hình dung đến mùa đông âm u, lạnh lẽo mà phải là mùa xuân ngập đầy sức sống, hay mùa hạ rực rỡ. Nhưng không, đây lại chính là bức tranh thiên nhiên Việt Bắc vào mùa đông. Trên cái nền xanh ngắt của rừng bạt ngàn là màu đỏ rực của hoa chuối. Cái ấm nóng rực rỡ dù nhỏ nhưng dường như đã làm cả bức tranh bừng sáng, trỗi dậy sức sống tiềm tàng trong đó.

Bức tranh thứ hai chính là mùa xuân. Ở đây khung cảnh thiên nhiên mang cái thanh khiết, dịu dàng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Câu thơ làm ta bất chợt nhớ đến cảnh:“Ôi sáng xuân nay, Xuân 41/ Trắng rừng biên giới nở hoa mơ/ Bác về… im lặng. Con chim hót/ thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ”. Xuân sang hè đến rực rỡ, muôn màu sắc và âm thanh. Là tiếng ve kêu rộn ràng, như một bản đàn chào đón mùa hè, cùng với đó là sắc rực rỡ của “rừng phách đổ vàng”. Là tiếng ve làm cho rừng phách đổ vàng hay bản thân nó vốn như vậy? Dù hiểu theo cách nào thì khung cảnh hiện lên cũng thật rực rỡ và ấm áp.

Cuối cùng là bức tranh mùa thu:

Mùa thu trăng rọi hòa bình

Ánh trăng dìu dịu của mùa thu lan tỏa khắp không gian. Trong màu sắc ấy, không gian ấy còn bừng lên khát vọng về một cuộc sống tự do, hòa bình. Dưới con mắt quan sát tinh tường của Tố Hữu, mỗi mùa ở nơi đây thiên nhiên hiện lên thật đẹp đẽ, thật đặc biệt. Có lẽ phải gắn bó và tha thiết yêu lắm ông mới có thể nắm bắt trọn vẹn từng nét đẹp tinh túy nhất của cảnh vật như vậy.

Đan xen ở mỗi bức tranh là hình ảnh của con người Việt Bắc. Ông không chỉ yêu quý, trân trọng thiên nhiên nơi đây mà còn tha thiết, chân thành với con người Việt Bắc. Ở mỗi đối tượng ông đều khám phá, nắm bắt được những vẻ đẹp khu biệt của họ. Là hình ảnh người nông dân lên núi làm việc với lưỡi dao lấp lánh dưới ánh nắng của mùa đông. Là bàn tay khéo léo của người đan nón thanh tĩnh “chuốt từng sợi giang” vô cùng điêu luyện. Bức tranh càng trở nên thơ mộng hơn với “Cô em gái hái măng một mình” ven suối bên tiếng ve kêu rộn rã. Và cuối cùng là tiếng hát tha thiết, trầm bổng vang vọng khắp không gian núi rừng Việt Bắc. Khúc hát vang lên cuối khổ thơ, kết hợp với hình ảnh ánh trăng càng làm rõ hơn nữa khát khao hòa bình, độc lập trong lòng tác giả.

Khổ thơ thể hiện nỗi nhớ da diết, bởi vậy bao trùm trong từng câu từng chữ là nhịp điệu nhẹ nhàng, trầm bổng từng bước một dẫn con người ta vào quá khứ đẹp đẽ, ân nghĩa, thủy chung. Nhịp điệu ấy cùng với thể thơ lục bát càng khiến cho nỗi nhớ trở nên bâng khuâng, da diết hơn.

Khép lại khổ thơ, nỗi nhớ bâng khuâng tha thiết vẫn trải dài, vang vọng khắp không gian. Nỗi nhớ ấy như một lời tri âm sâu nặng của tác giả đối với thiên nhiên và con người nơi đây. Đồng thời với việc lựa chọn các hình ảnh bình dị, ngôn ngữ thơ trong sáng dễ hiểu nhưng lại tạo nên một bức tranh tứ bình đặc sắc lại một lần nữa khẳng định tài năng nghệ thuật của Tố Hữu.

Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 9

“Ôi! Nỗi nhớ, có bao giờ thế!”. Nỗi nhớ đi qua thời gian, vượt qua không gian. Nỗi nhớ thấm sâu lòng người…Và nỗi nhớ ấy cứ ray rứt, da diết trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng miền xuôi khi xa rồi Việt Bắc thân yêu – nơi đã từng nuôi nấng mình trong những ngày kháng chiến gian lao….

Trong cùng một đoạn thơ ngắn nhưng từ “nhớ” đã được lặp lại năm lần. Nỗi nhớ xuyên suốt từ câu đầu đến câu cuối đoạn. Hai dòng đầu là lời khơi gợi, “nhắc khéo”: mình có nhớ ta không? Riêng ta, ta vẫn nhớ! Cách xưng hô gợi vẻ thân mật, tình cảm đậm đà tha thiết. Ta với mình tuy hai mà một, tuy một mà hai. Người ra đi nhớ những gì? Việt Bắc có gì để mà nhớ, để mà thương? Câu thơ đã trình bày rất rõ?

“Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”

Núi rừng, phong cảnh Việt Bắc được ví như “hoa”. Nó tươi thắm, rực rỡ và “thơm

mát”. Trong bức tranh thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên, giản dị, chân chất, mộc mạc mà cao đẹp vô cùng! Con người và thiên nhiên lồng vào nhau, gắn kết với nhau tạo nên cái phong thái riêng của Việt Bắc.

Bốn mùa đất nước đi qua trong những câu thơ ngắn gọn bằng các hình ảnh, chi tiết chắt lọc, đặc trưng. Mỗi mùa mang một hương vị độc đáo riêng.

Mùa đông, rừng biếc xanh, điểm lên những bông hoa chuối “đỏ tươi” và ánh nắng vàng rực rỡ. Xuân đến, cả khu rừng bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ. Hè sang, có ve kêu và có “ rừng phách đổ vàng”. Và khi thu về, thiên nhiên được thắp sáng bởi màu vàng dìu dìu của ánh trăng. Đoạn thơ tràn ngập những màu sắc chói lọi, rực rỡ: xanh, đỏ, vàng, trắng… Những màu sắc ấy đập mạnh vào giác quan của người đọc. Tiếp xúc với những câu thơ của Tố Hữu, ta như được chiêm ngưỡng một bức tranh sinh động. Trong đó, những gam màu được sử dụng một cách hài hoà tự nhiên càng tô thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc.

Thời gian vận hành nhịp nhàng trong những dòng thơ. Nó bước những bước rắn rỏi, vững chắc khiến ta chẳng thể thấy phút giao mùa. Thiên nhiên Việt Bắc còn được mô tả theo chiều dọc thời gian. Buổi sáng hoa “mơ nở trắng rừng”, trưa nắng vàng rực rỡ và khi đêm về, trăng rọi bàng bạc khắp nơi… Núi rừng Việt Bắc như một sinh thể đang biến đổi trong từng khoảnh khắc….

Và cái phong cảnh tuyệt vời, đáng yêu ấy càng trở nên hài hoà, nắng ấm, sinh động hẳn lên khi xuất hiện hình ảnh của con người. Con người đang lồng vào thiên nhiên, như một đoá hoa đẹp nhất, có hương thơm ngào ngạt nhất. Mỗi câu thơ tả cảnh đi cặp với một câu thơ tả người. Cảnh và người đan xen vào nhau một cách hài hoà. Đây là những con người lao động, gắn bó, hăng say với công việc. Kẻ “dao gài thắt lưng”, người “đan nón”, “cô em gái hái măng một mình” và tiếng hát ân tình của ai đó vang lên giữa đêm rừng núi xôn xao… Hình ảnh con người là nét đẹp của thiên nhiên thêm rực rỡ. Chính họ đã thắp sáng thiên nhiên, làm cho thiên nhiên thêm rực rỡ. Chính họ đã gợi nên nỗi nhớ da diết cho người ra đi. Đọc đoạn thơ, ta có cảm nhận những vẻ đẹp bình dị mà trong sáng của tâm hồn người Việt Bắc. Ở đó họ đối xử với nhau bằng tình nghĩa mặn mà, chân thật, bằng sự thuỷ chung “trước sau như một”. Họ đã nuôi chiến sĩ, nuôi cách mạng, nuôi cuộc kháng chiến của dân tộc… Những con người Việt Bắc tuy bình dị nhưng thật anh hùng.

Khơi gợi hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây, Tố Hữu đã thể hiện một tình cảm tha thiết, ân tình sâu nặng và nỗi nhớ thương sâu sắc. Ta với mình, mình với ta đã từng:

Đã từng san sẻ những ngọt bùi, gian nan vất vả như thế! Ta, mình làm sao có thể quên nhau được. Tình cảm mến thương ấy đã ăn sâu vào tâm hồn kẻ ở, người đi. Vì thế, khi ra đi, nhớ là nỗi niềm khắc đậm sâu trong tâm khảm, tình cảm của tác giả.

Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng. Cả khổ thơ ôm chứa niềm lạc quan, vui sống và tin tưởng vào cuộc sống. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết và tấm lòng yêu nước thiết tha của Tố Hữu. Cuối đoạn thơ vang lên tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm. Kỉ niệm ấy theo mãi dấu chân người đi và quấn quýt bên lòng kẻ ở lại….

Những câu thơ của Tố Hữu có tính khái quát cao so với toàn bài.Lời thơ giản dị mà trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người đọc, như khúc dân ca ngọt ngào để lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng, dịu dàng.

Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 10

Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình – nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời kì cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi. Và cứ thế sợi nhớ sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như tiếng gọi “Ta – mình” của đôi lứa yêu nhau. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.

Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu. Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng của thơ ca kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ được viết vào tháng 10/1954 khi Trung ương Đảng và Chính phủ Bác Hồ và cán bộ kháng chiến từ giã “Thủ đô gió ngàn” về với “Thủ đô Hoa vàng nắng Ba Đình”. Cả bài thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi hào hùng. Nhưng có lẽ để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình với bốn mùa xuân – hạ – thu – đông.

Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ:

Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” câu thơ thứ hai là tự trả lời điệp từ “ta” lặp lại bốn lần cùng với âm “a” là âm mở khiến câu thơ mang âm hưởng ngân xa tha thiết nồng nàn. Với Tố Hữu người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của “hoa cùng người”. Ở đây hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc, còn người là con người Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa nhớ cảnh câu tám dành cho nhớ người. Cảnh và Người trong mỗi câu lại có những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.

Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu thì thật lạ. Mùa đông bỗng ấm áp lạ thường:

Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét màu sắc vừa đối lập vừa hài hòa vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi” – gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

Từ liên tưởng ấy ta thấy mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.

Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Trước thiên nhiên bao la con người dường như càng trở nên kỳ vĩ hùng tráng hơn. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí một tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao chiếm lĩnh núi rừng tự do “Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta”. Đây là tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang, con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Đông qua xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây hoa lá của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt Bắc cũng vậy:

Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng trong trẻo tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Cụm từ “trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng bâng khuâng dịu mát của hoa mơ. Động từ “nở” làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:

Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn tỉ mẩn khéo léo tài hoa nhanh nhẹn chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc.

Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve bức tranh Việt Bắc lại sống động hơn bao giờ hết:

Thời điểm ve kêu cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ “đổ” là động từ mạnh diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm nên lung linh ánh sáng màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa mà còn có tài trong việc miêu tả sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện đặc sắc của tính dân tộc.

Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; trái lại rất trữ tình thơ mộng gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng sau đó ẩn chứa biết bao niềm cảm thông trân trọng của tác giả.

Thu sang khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát:

Không gian bao la tràn ngập ánh trăng đó là ánh trăng của tự do của hòa bình rọi sáng niềm vui lên từng núi rừng từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:

Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng.

Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.

Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị vừa cổ điển vừa hiện đại đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi.

Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 11

Tố Hữu được xem là “lá cờ đầu” trong phong trào thơ Cách mạng Việt Nam với những tác phẩm lưu mãi với thời gian. Thơ ông viết về chính trị nhưng không khô khan, mà ngược lại, dễ đi sâu vào lòng người bởi tình cảm và giọng văn trữ tình truyền cảm. “Việt Bắc” được sáng tác trong hoàn cảnh chia ly tiễn biệt giữa quân và dân tại căn cứ địa Việt Bắc sau kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được xem như lời tâm tình chan chứa nỗi niềm của Tố Hữu đối với mảnh đất anh hùng này. Đặc biệt người đọc chắc hẳn sẽ không quên bức tranh tứ bình bằng thơ tuyệt đẹp trong “Việt Bắc”.

Xuyên suốt bài thơ “Việt Bắc” là dòng tâm tư, tình cảm chan chứa và sâu lắng của Tố Hữu dành cho quân và dân từng tham gia trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Người đọc sẽ bắt gặp những hình ảnh gần gũi, đời sống bình dị, cả những con người chân chất Việt bắc qua lời thơ Tố Hữu. Phải có một tình cảm da diết, phải là người “nặng” tình thì Tố Hữu mới thổi hồn vào từng câu đối đáp bằng thơ lục bát nhuần nhuyễn như vậy.

Có thể nói rằng điểm sáng của cả bài thơ toát lên từ bức tranh tứ bình tuyệt đẹp của núi rừng Việt Bắc qua giọng thơ dìu dặt, trầm bổng của Tố Hữu. Người đọc sẽ được chìm đắm trong khung cảnh hữu tình, nên thơ của “xứ Tiên” này.

Khổ thơ được mào đầu bằng câu đối đáp nhẹ nhàng giữa “ta” – “mình”:

Thật khéo léo và tinh tế khi Tố Hữu truyền đạt tình cảm một cách kín đáo như thế này. Ngôn ngữ gần gũi, cách diễn tả nhẹ nhàng cũng đã khiến người đọc thấy rất thấm. Tố Hữu hỏi “người” nhưng thực ra là hỏi “mình” và câu trả lời nằm ngay trong câu hỏi. Lời mào đầu sâu sắc này sẽ dẫn người đọc lần lượt khám phá nét đặc trưng của núi rừng Việt Bắc trải dọc theo 4 mùa.

Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 12

Dẫn dắt người đọc cùng tham quan cảnh tiên nơi Việt Bắc, Tố Hữu đã vẽ lên một bức tranh mùa đông ấm áp, tràn đầy tin yêu:

Người đọc ngẩn ngơ trước mùa đông nơi vùng cao Tây Bắc với vẻ đẹp đặc trưng của nó. Phải nói rằng tuy là mùa đông nhưng qua thơ Tố Hữu, cảnh sắc không buồn, không trầm lắng, mà người lại rất sáng, rất ấm áp qua hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi”. Màu đỏ của hoa chuối chính là nét điểm xuyết, là ánh sáng làm bừng lên khung cảnh rừng núi mùa đông Việt Bắc. Đây được xem là nghệ thuật chấm phá rất đắc điệu của Tố Hữu giúp người đọc thấy ấm lòng khi nhớ về Việt Bắc. Ánh nắng hiếm hoi của mùa đông hắt vào con dao mang theo bên người của người dân nơi đây bất chợt giúp người đọc thấu được đời sống sinh hoạt và lao động của họ. Màu đỏ của hoa chuối quyện với màu vàng của nắng trên đèo cao đã tạo thành một bức tranh mùa đông rạng rỡ, đầy hi vọng.

Bức tranh mùa xuân ở núi rừng Việt Bắc hiện lên thật trữ tình, thơ mộng như tiên cảnh:

Đọc hai câu thơ này, người đọc dường như mường tượng ra khung cảnh mùa xuân nơi núi rừng thật hiền hòa, dịu êm, ấm áp. Màu trắng của mơ gợi lên một bức tranh nên thơ trên cái nền dịu nhẹ của màu sắc. Hoa mơ được xem là loài hoa báo hiệu mùa xuân ở Tây bắc, cứ vào độ xuân thì, chúng ta sẽ bắt gặp trên những con đường màu sắc ấy. Mùa xuân Tây Bắc, Tố Hữu nhớ đến hình ảnh “người đan nón” với động tác “chuốt từng sợi giang” thật gần gũi. Động từ “chuốt” được dùng rất khéo và tinh tế khi diễn tả về hành động chuốt giang mềm mại, tỉ mỉ của người đan nón. Phải thật sâu sắc và am hiểu thì Tố Hữu mới nhận ra được điều này. Chữ “chuốt” như thổi hồn vào bức tranh mùa xuân ở Việt Bắc, tạo nên sự hòa hợp thiên nhiên và con người.

Bức tranh mùa hè sôi động dưới ngòi bút của Tố Hữu:

Tiếng ve kêu vàng giữa “rừng phách” đã làm nên cái động giữa muôn vàn cái tĩnh. Màu vàng của rừng phách là đặc trưng báo hiệu mùa hè về trên xứ sở vùng cao. Tiếng ve như xé tan sự yên tĩnh của núi rừng, đánh thức sự bình yên nơi đây. Từ “đổ” dùng rất đắc điệu, là động từ mạnh, diễn tả sự chuyển biến quyết liệt, lôi cuốn của màu sắc. Bức tranh mùa hè chợt bừng sáng, đầy sức sống với màu vàng rực của rừng phách. Ở mỗi bức tranh thiên nhiên, người đọc đều thấy thấp thoáng bóng dáng con người. Có thể nói đây chính là sự tài tình của Tố Hữu khi gắn kết mối tâm giao giữa thiên nhiên và con người. Giữa núi bao la, thấp thoáng bóng dáng “cô gái hái măng” tuyệt đẹp đã khiến cho thiên nhiên có sức sống hơn.

Và cuối cùng chính là bức tranh mùa thu nhẹ nhàng:

Mùa thu về trên Tây Bắc với hình ảnh ánh trăng dịu, mát lành. Thiên nhiên dường như rất ưu ái cho mùa thu xứ bắc với sự tròn đầy, viên mãn của ánh trăng. Không phải là ánh trăng bình thường, mà trăng nơi đây là trăng của hòa bình, ánh trăng tri kỉ rọi chiếu những năm tháng chiến tranh gian khổ. Chính ánh trăng ấy đã mang đến vẻ đẹp riêng của mùa thu Việt bắc. Tố Hữu nhìn trăng, nhớ người, nhớ tiếng hát gợi nhắc ân tình và thủy chung.

Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 13

Tố Hữu là một trong số những gương mặt tiêu biểu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Thơ ông là đỉnh cao của khuynh hướng trữ tình – chính trị, mang đậm khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn và tinh thần dân tộc. Và có thể nói, Việt Bắc là một trong số những sáng tác tiêu biểu nhất cho đặc điểm thơ Tố Hữu. “Việt Bắc” là khúc anh hùng ca và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về kháng chiến và về con người. Và có lẽ, những ai đã đọc Việt Bắc sẽ không thể nào quên được vẻ đẹp của bức tranh tứ bình trong bài thơ – vẻ đẹp với sự gắn bó, hòa quyện giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc.

Mở đầu đoạn thơ miêu tả bức tranh tứ bình trong “Việt Bắc” là một câu hỏi tu từ – một câu hỏi để lại trong lòng bạn đọc ấn tượng khôn nguôi:

Với hình thức câu hỏi tu từ, ngắt nhịp chẵn cùng việc sử dụng điệp từ “ta” tác giả như muốn nhấn mạnh nỗi nhớ, cùng tấm lòng thủy chung son sắt của mình. Nỗi nhớ ấy, tấm lòng ấy gửi đến “hoa cùng người”. Cách nói tách đôi “hoa” và “người” giúp người đọc nhận thấy sự kết hợp hài hòa, đan xen vào nhau giữa “hoa” – thiên nhiên Việt Bắc với “người” – những người dân Việt Bắc, những người tham gia vào cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ của dân tộc.

Những nét vẽ đầu tiên cho bức tranh tứ bình trong bài thơ là khung cảnh mùa đông đẹp đẽ, tràn đầy sức sống nơi núi rừng Tây Bắc của Tổ quốc:

Hình ảnh thiên nhiên gợi ấn tượng đậm nét với bạn đọc về khung cảnh thiên nhiên Việt Bắc vào đông với một màu xanh bạt ngàn, vô tận ánh ngời lên sức sống mãnh liệt của thiên nhiên, cảnh vật nơi đây. Và để rồi, trên cái nền xanh ấy là sự điểm xuyết màu đỏ rực rỡ của những bông hoa chuối rừng. Hai gam màu ấy quyện hòa vào nhau dưới ánh nắng vàng làm cho bức tranh thêm sinh động ấm áp. Trên cái nền thiên nhiên vào đông ấy, hình ảnh con người hiện lên thật khỏe khoắn, mạnh mẽ và đầy chủ động “dao gài thắt lưng”. Con người ở đây được đặt trong không gian thiên nhiên rộng lớn, bao la, kì vĩ song vẫn nổi bật lên một cách vững chãi, sánh ngang với tầm vóc thiên nhiên.

Không chỉ là khung cảnh Việt Bắc vào đông mà hình ảnh vào xuân của thiên nhiên Việt Bắc cũng được tác giả miêu tả một cách sinh động, độc đáo:

Có thể nói, sắc trắng của hoa đào, hoa mận đã trở thành nét đặc trưng riêng của thiên nhiên Tây Bắc mỗi độ xuân về và ở đây, tác giả Tố Hữu đã thể hiện rõ điều đó. Đó là một bức tranh mùa xuân viên mãn và tràn đầy sức sống với sắc trắng của rừng mơ tinh khôi, trẻ trung, thơ mộng. Cái đẹp, cái quyến rũ của thiên nhiên dường như được tăng lên bội phần bởi chính cảm xúc trầm trồ, ngưỡng mộ của tác giả qua cách sử dụng từ “trắng rừng”. Trên cái nền xao xuyến ấy của thiên nhiên, hình ảnh con người hiện lên thật lặng lẽ. Từng động tác “chuốt từng sợi giang” vừa gợi sự cẩn trọng, tỉ mỉ vừa gợi sự khéo léo, tài hoa của những người lao động Việt Bắc. Dường như, bao nhiêu yêu thương, bao nhiêu ân tình được người lao động gửi trọn vào trong đấy.

Nếu như bức tranh mùa xuân được tác giả vẽ lên bằng màu sắc của thiên nhiên Việt Bắc thì bức tranh mùa hè được tác giả gợi nên từ cả màu sắc lẫn âm thanh:

Thiên nhiên có sự quyện hòa giữa sắc vàng của phách và âm thanh của tiếng ve để rồi như rộn lên những cảm xúc yêu mến, xốn xao khi phải chia li. Âm thanh và màu sắc cộng hưởng vào nhau, dường như, tiếng ve đã đánh thức màu sắc để tạo nên sự chuyển động mau lẹ “rừng phách đổ vàng”. Chữ “đổ” được tác giả sử dụng thật tinh tế, gợi nên sự căng tròn, tràn trề và cả nguồn sống rạo rực. Trong cảnh sắc ấy, con người vẫn âm thầm “một mình” chăm chỉ “hái măng”. Đó chính là hình ảnh người lao động chịu thương, chịu khó lặng thầm cống hiến cho đất nước, cho kháng chiến.

Hình ảnh kết thúc bức tranh tứ bình trong Việt Bắc đó chính là bức tranh về mùa thu – mùa thu hòa bình:

Bức tranh thiên nhiên hiện lên thật đẹp đẽ trong vẻ êm đềm, thơ mộng với ánh trăng tỏa sáng, chiếu rọi khắp núi rừng. “Trăng rọi hòa bình” là hình ảnh gợi tới ngày mai tươi sáng. Có thể nói, đây là một hình ảnh thơ được tạo nên bởi sự hòa quyện giữa cảm hứng thiên nhiên và cảm hứng lịch sử. Và để rồi, trong không khí ấy, con người hiện lên không phải bởi gương mặt, hình dáng mà bởi tiếng hát, với nét đẹp tâm hồn từ ngàn đời nay của dân tộc Việt Nam: ân tình, thủy chung, lạc quan và luôn tin vào một ngày mai tươi sáng.

Tóm lại, bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc hiện lên thật đẹp, thật sinh động bởi nó có sự gắn bó, hòa quyện giữa thiên nhiên và con người. Đồng thời, qua đó, chúng ta thấy được tài năng của Tố Hữu trong việc sử dụng ngôn ngữ, lựa chọn hình ảnh và tấm lòng ân tình, thủy chung của ông đối với quê hương cách mạng Việt Bắc.

Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 14

Như khúc hát của cảm xúc cất lên từ sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ, thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trên đời trở nên bất tử. Thơ – là biểu hiện của những tình cảm sâu sắc, là ước mơ cao đẹp con người luôn vươn tới, là nghệ thuật bên trong của tâm hồn, là sự bùng cháy của cảm xúc trong khoảnh khắc, là sự bột phá của những tình cảm mãnh liệt.

Ta tìm đến với một bài thơ có khi vì ta yêu lối thể hiện của người nghệ sĩ, và có khi ta cũng đồng cảm với họ trong giây phút lắng lòng ẩn sâu ở từng lời thơ, câu chữ vả cả cái tôi tài tình, giọng điệu tài hoa hay cả đến sự sáng tạo bậc thầy. Trong số những thi sĩ từng mến yêu thì Tố Hữu là một nhà thơ như thế.

Tố Hữu được biết đến là lá cờ đầu trong thơ ca cách mạng Việt Nam. Hồn thơ Tố Hữu là sự kết hợp hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Thơ ông mang tính chất trữ tình chính trị sâu sắc và giàu tính dân tộc, là biểu hiện của những lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn. Chính vì vậy mà đọc các tác phẩm thơ của Tố Hữu người đọc có thể thấy được những dấu mốc lịch sử quan trọng của đất nước. Nói về các tác phẩm thơ Tố Hữu có người đã ví nó như một thước phim quay chậm những trang sử vẻ vang của dân tộc.

“Việt Bắc” được sáng tác vào năm 1954 khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc thắng lợi. Đây là lúc mà các cơ quan trung ương Đảng và chính phủ từ Việt Bắc trở về Hà Nội. Tố Hữu đã tái hiện lại cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người cán bộ với nhân dân Việt Bắc sau thời gian dài sống, chiến đấu và gắn bó cùng nhau trải qua mọi gian khổ.

Trong bài thơ tác giả sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc kết hợp lối hát đối đáp như ca dao dân ca để tái hiện cuộc chia tay đầy lưu luyến giữa những người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc.

Nhưng có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hòa quyện thắm thiết giữa cảnh với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình trong bức tranh tứ bình:

Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử tháng 10 năm l954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân-tất cả là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc. Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.

Bàn về thơ, Chenier đã từng nói: Nghệ thuật chỉ làm nên những câu thơ, trái tim mới là thi sĩ. Một bài thơ có giá trị, ấy là khi nó bao quát và thể hiện được tư tưởng cảm xúc của người nghệ sĩ, ấy là khi nó viết lên bằng những dòng thơ, những câu thơ chân thành, sâu lắng, tất cả đều bắt nguồn từ thẳm sâu trái tim người viết. Nằm trong quy luật ấy, những năm đầu thế kỷ XX, những nhà thơ Mới đương thời ảnh hưởng mạnh mẽ thơ ca lãng mạn phương Tây, của Rimbaud, Verlaine…thì Tố Hữu lặng lẽ tìm về với những vần thơ lục bát của dân tộc. Chính điều này đã tạo nên một thi sĩ Tố Hữu riêng biệt, độc đáo, chính trị mà rất trữ tình.

Xuyên suốt bài thơ “Việt Bắc” là dòng tâm tư, tình cảm chan chứa và sâu lắng của Tố Hữu dành cho quân và dân từng tham gia trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Người đọc sẽ bắt gặp những hình ảnh gần gũi, đời sống bình dị, cả những con người chân chất Việt bắc qua lời thơ Tố Hữu. Phải có một tình cảm da diết, phải là người “nặng nợ” ân tình thì Tố Hữu mới thổi hồn vào từng câu đối đáp bằng thơ lục bát nhuần nhuyễn như vậy. Có thể nói rằng điểm sáng của cả bài thơ toát lên từ bức tranh tứ bình tuyệt đẹp của núi rừng Việt Bắc qua giọng thơ dìu dặt, trầm bổng của Tố Hữu. Người đọc sẽ được chìm đắm trong khung cảnh hữu tình, nên thơ của núi rừng này.

Hai câu thơ mở đầu mang đến cảm xúc chủ đạo của toàn đoạn thơ. Đó là cảm xúc nhớ nhung không nguôi về Việt Bắc:

Mở đầu đoạn thơ là một câu hỏi tu từ bâng khuâng, thấm vào hồn người và cảnh vật-“ta về mình có nhớ ta”. Đây là câu hỏi ngọt ngào phảng phất hương vị của tình yêu. Hỏi đấy nhưng là hỏi để bộc lộ cảm xúc, hỏi để rồi lại bồi hồi xao xuyến phút chia xa. Vẫn là cách xưng hô “mình-ta” ngọt ngào gợi nhiều cảm xúc. “Ta” chỉ người đi, “mình” chỉ người ở lại. “Ta-mình” còn gợi bao lời nồng nàn của ca dao tình yêu lứa đôi: “Mình về ta chẳng cho về-Ta nắm vạt áo ta đề bài thơ” hay “Mình về mình nhớ ta chăng-Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”.

Nét đặc sắc của Tố Hữu là ở chỗ, viết về sự kiện lịch sử, về chuyện chính trị nhưng không hề khô khan, cứng nhắc. Đó là nhờ nhà thơ đã vận dụng sáng tạo hai đại từ nhân xưng “mình-ta” cũng như sử dụng sáng tạo thể thơ lục bát nhuần nhuyễn trong điệu lối đối đáp trữ tình. Chuyện chia tay của nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành cuộc chia tay của “ta” và “mình” đang tạm xa nhau vì nghĩa vụ cách mạng. Lời thơ vì thế trở nên dạt dào hương vị trữ tình, chuyện cách dễ dàng đi vào lòng người, gây nhung nhớ, chạm đến trái tim.

Câu thơ thứ hai như một lời khẳng định: “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Hai câu thơ đầy ắp những “ta”, “mình”, những “mình nhớ”, “ta nhớ” kết hợp điệp từ “ta” với âm “a” (âm mở) khiến cho nỗi nhớ như vang vọng, mênh mang, sâu lắng hơn. Người về mang theo nỗi nhớ “những hoa cùng người”. “Hoa” là ẩn dụ cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc.

“Hoa” cũng là cách nói hoán dụ cho ta cảm nhận: Trong tâm hồn người ra đi thì ký ức còn lại là những ký ức rất đẹp. Còn “Người” là vẻ đẹp của con người lao động nơi đây. Chữ “cùng” trong “nhớ những hoa cùng người” rất sáng tạo. Nó gợi lên nỗi nhớ lắng sâu da diết. Nỗi nhớ cùng lúc đồng hiện hoa và người. Nhớ hoa thì trong hoa lấp lánh bóng người, mà nhớ người thì trên khuôn mặt người lấp lánh bóng hoa. Có lẽ vì vậy mà bốn cặp lục bát tiếp theo, câu lục nhắc đến hoa thì câu bát lại nói đến người. Hoa và người đan cài vào nhau dệt nên bộ tứ bình lộng lẫy.

Như khúc hát của cảm xúc cất lên từ sâu thẳm trái tim người nghệ sĩ, thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trên đời trở nên bất tử. Thơ là biểu hiện của những tình cảm sâu sắc, là ước mơ cao đẹp mà con người luôn muốn vươn tới, là nghệ thuật bên trong của tâm hồn, là sự bùng cháy của cảm xúc trong khoảnh khắc, là sự bột phát của những tình cảm mãnh liệt. Ta tìm đến một bài thơ có khi vì ta yêu lối thể hiện của người nghệ sĩ, và có khi ta cũng đồng cảm với họ trong giây phút lắng lòng ẩn sâu trong từng lời thơ con chữ. Bởi “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ” thì “Việt Bắc” của Tố Hữu là một trường ca tuyệt đẹp về cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp.

Bài thơ đi vào lòng người bằng giọng điệu ân tình chung thuỷ như ca dao, khắc họa sâu sắc nỗi niềm của những người con dời “thủ đô kháng chiến”, thâm tâm đầy ắp kỷ niệm nhớ thương. Trong tâm trạng kẻ ở-người đi, hình bóng của núi rừng, con người Việt Bắc vẹn nguyên cùng ký ức, với bao hình ảnh đơn sơ mà cảm động. Để hôm nay, những câu thơ còn rung động lòng người với những sắc màu, âm thanh tươi rói hơi thở của núi rừng chiến khu, hơi ấm của tình người lan toả.

Mở đầu bộ tứ bình là bức tranh mùa đông dạt dào sức sống. Vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc được đan cài, hòa quyện vào vẻ đẹp của con người Việt Bắc trong lao động và sản xuất. Trong đoạn thơ, cứ 1 câu lục tả cảnh là một câu bát tả người, thiên nhiên và con người đã hòa nhập, tỏa sáng bức tranh thơ.Tố Hữu đã khéo léo vận dụng thành công đặc trưng tái hiện không gian vô cực của thi ca gói trọn bốn mùa Xuân-Hạ-Thu-Đông trong những sắc màu đẹp nhất, hài hòa nhất. Mỗi bức tranh gồm hai mảng: Một mảng xa, một mảng gần. Mỗi bức đều có sự gắn bó giữa thiên nhiên với con người, sự gắn bó trong nỗi nhớ những hoa cùng người của nhà thơ:

Nhắc đến mùa đông ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Núi rừng Việt Bắc bao trùm một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh của rừng già-màu xanh ngằn ngặt đầy sức sống. Nét son của bức tranh núi rừng ở đây là có sự điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi”-gam màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng.

Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

Từ liên tưởng ấy ta thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa màu xanh của núi rừng.

Bên cạnh nét đẹp của hoa là nét đẹp khỏe khoắn của người. “Nắng ánh dao gài thắt lưng” là hình ảnh của người dân miền sơn cước. Cách hoán dụ không phải tình cờ ngẫu nhiên mà chọn con dao đi rừng, vật bất ly thân của người miền núi, nét đặc trưng của cuộc sống Việt Bắc. Con người nổi bật trong không gian đèo cao, càng nổi bật trong ánh nắng, thành một điểm sáng giữa khung cảnh mùa đông mang trong mình nét hiên ngang hùng vĩ của núi rừng. Hình ảnh “dao gài thắt lưng” là vẻ đẹp của con người trong tư thế đang đứng trên đỉnh đèo, ánh sáng mặt trời chói vào lưỡi dao lóe sáng. Đây là vẻ đẹp của sự vững chãi, tự tin, làm chủ núi rừng của con người Việt Bắc-họ đang cố gắng sản xuất nhiều lúa gạo hơn nữa cho cuộc kháng chiến.

Trước thiên nhiên bao la, con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất-“đèo cao”. Con người đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do “Núi rừng đây là của chúng ta/Trời xanh đây là của chúng ta”. Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi: Giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Có thể nói rằng: Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ-Đặng Thai Mai. Bởi thế thơ chính trị đã được thơ Tố Hữu đưa lên đến độ rất đỗi trữ tình, song hành với những biến cố, sự kiện trọng đại của dân tộc. Sự kết hợp sáng tạo ấy rất nhẹ nhàng, sâu lắng, tinh tế, cứ thế thấm vào lòng người bằng ý, bằng tình, bằng cảm xúc của 15 năm gắn bó nghĩa tình.

Với người nghệ sĩ thì thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ cười trong sáng hay những giọt nước mắt cay đắng. Thơ là cây đàn muôn điệu gảy lên những cung bậc cảm xúc của con người, là biểu hiện cho những tình cảm thầm kín, hồn nhiên nhất. Như Tố Hữu từng nói: Bài thơ hay là bài thơ làm cho người ta không còn thấy câu thơ, chỉ còn cảm thấy tình người, quên rằng nó là tiếng nói của ai, người ta chỉ còn cảm thấy nó như tiếng ca cách lên từ lòng mình như là của mình vậy. Thơ ca chính là sự kết tinh giữa chữ tình và cái tài của thi nhân. Tình chính là tâm sơ còn cái tài lại là cái cách biểu đạt qua từng con chữ. Để có thể chạm vào vào trái tim người đọc thì mỗi tác phẩm không chỉ mang theo tâm tình, nỗi lòng, tình yêu của tác giả.

Chưa hết ngỡ ngàng bởi bức tranh mùa đông đặc trưng của núi rừng Việt Bắc, người đọc lại đắm mình trong bức tranh xuân đang bừng sáng sức sống hoang dại, mãnh liệt của thiên nhiên mùa xuân ở Việt Bắc.

Cùng với sự chuyển mùa là sự chuyển màu trong bức tranh, đông qua, xuân lại tới. Nhắc đến mùa xuân ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng vậy. Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Cụm từ “trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ “nở” làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống.

Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:

(“Theo chân Bác”)

(“Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”)

Không gian mùa xuân bừng sáng trong sắc hoa mơ. Sức sống mùa xuân lan tỏa khắp núi rừng Việt Bắc. Giữa nền trắng hoa mơ nổi bật “người đan nón”. Nỗi nhớ ở đây cụ thể đến từng chi tiết “chuốt từng sợi giang”. Dường như đối với Tố Hữu bao nhiêu sợi giang là bấy nhiêu sợi nhớ. Nỗi nhớ cứ liên tiếp, đan xen vào nhau và kéo dài suốt bốn mùa trong năm. Trong tả cảnh không có một âm vang nào của núi rừng nhưng vẻ đẹp của mùa xuân vẫn sinh động nhờ hoạt động của con người.

Trong nốt ngân vang trong trẻo, tràn sức sống đó, mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay của con người lao động: Cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của con người Việt Bắc. Dường như bao nhiêu yêu thương, đợi chờ, mong ngóng họ đang gửi vào sợi nhớ, sợi thương để dệt nên những vành nón nghĩa tình gửi ra cho cán bộ, dân công ngoài mặt trận.

Hai câu thơ mùa xuân khơi dậy những cảm xúc thẩm mỹ tuyệt đẹp trong hoài niệm dìu dặt, nhắc người cán bộ bịn rịn về xuôi. Ai đó đã nói rằng: “Thơ hay phải có dư vị văn chương”. Trong những năm dài sống trong chế độ bao cấp, thiếu thốn đủ điều, có lúc phải ăn bo bo, nên khi đọc Việt Bắc, nhiều người chưa cảm thấy “dư vị” của nó.

Khi xưa, phải chăng Beethoven đã viết bản nhạc bằng những xúc cảm tinh tế mà mãnh liệt nhất ngay khi nhìn thấy cảnh sống của cha con cô gái mù. Còn Tố Hữu cũng đã từng khẳng định: “Thơ là chuyện đồng điệu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, là tiếng nói đồng chí”. Phải chăng nỗi nhớ, sự gắn bó keo sơn, máu thịt suốt 15 năm kháng chiến đã hòa quyện thành lời, thành thơ rưng rưng trong Việt Bắc.

Sau vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Bắc ở mùa xuân là bức tranh mùa hạ Việt Bắc óng vàng tựa như một bức tranh sơn mài vừa đậm chất cổ điển vừa mang những đường nét hiện đại:

Câu thơ thứ nhất là bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của mùa hè với hai ấn tượng: Tiếng ve và phách đổ vàng. Tiếng ve là đặc trưng của mùa hạ; còn phách đổ vàng là đặc trưng của mùa hè Việt Bắc. Chữ “đổ” đ­ược dùng thật chính xác, tinh tế. Nó làm hiện lên đồng thời cùng lúc hai hoạt động. Hoạt động của âm thanh và hoạt động của sắc màu. Dường như khi tiếng ve vừa đổ xuống thì cũng là lúc cả cánh rừng phách đồng loạt chuyển sang màu vàng.

Tiếng ve lan đến đâu, sắc vàng dậy lên đến đó. Ý thơ gợi nhớ một câu thơ của Khương Hữu Dụng: “một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Đó là nghệ thuật dùng âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy, cảnh thực mà vô cùng huyền ảo. Nghệ thuật ấy vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình và chính xác khoảnh khắc hè sang. Bức tranh mùa hè vì thế mà hiện lên tươi tắn, thơ mộng, dịu mát chứ không hề chói chang như trong thơ ca cổ kim. Động từ “đổ” được Tố Hữu dùng rất tinh tế và chính xác để diễn tả sự chuyển biến mau lẹ của sắc màu.

Cũng giống như từ “đổ” trong câu thơ của Xuân Diệu: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”.

Hiện lên giữa nền thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hai chữ “một mình” giàu sức gợi. Nó vừa gợi lên dáng vẻ con người lao động cặm cụi, siêng năng, chịu thương chịu khó; vừa gợi nhớ ca dao: “Trúc xinh trúc mọc đầu đình-em xinh em đứng một mình cũng xinh”. Ý thơ ẩn chứa nỗi nhớ, niềm yêu, sự trân trọng của nhà thơ dành cho người em gái thương yêu.

Chuyện cách mạng, chính trị qua các thể thơ, lối đối đáp “mình-ta” nó trở nên ngọt ngào, trữ tình quá đỗi thực sự là một sự thành công lớn trong sáng tạo nghệ thuật của Tố Hữu. Đúng như Xuân Diệu đã khẳng định: Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình, vì vậy, Tố Hữu xứng đáng là thi sĩ của nhân dân, là “Lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam”.

Người thợ làm bánh làm ra chiếc bánh thạch bằng một tình yêu với món bánh quê nhà, người họa sĩ vẽ bức tranh mùa thu bằng cái hồn say đắm thiên nhiên đất nước. Còn nhà thơ Tố Hữu đã viết những câu “Việt Bắc” thơ bằng chính rung động của mình trước cuộc chia tay, trước những hoài niệm của những năm tháng gian khổ, hào hùng không thể nào quên với đồng bào Việt Bắc. Đó chính là cốt lõi của sức mạnh thơ Tố Hữu trong những ngày nói với trái tim, nói với chính mình.

Khép lại bộ tranh tứ bình Việt Bắc là bức tranh mùa thu cùng tiếng hát chia tay giã bạn để lại âm vang nghĩa tình kháng chiến:

Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh, dịu mát. Không gian bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng niềm vui lên rừng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở chiến khu:

Không gian chuyển về đêm như hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mĩ của núi rừng Việt Bắc. Đêm thu và ánh trăng nhẹ nhàng như lan toả vào màu xanh của núi rừng. Vẻ đẹp của khu rừng dưới ánh trăng gợi lên sự huyền ảo, khung cảnh gợi hồn thơ. Nỗi nhớ cũng mênh mang như ánh trăng trở thành “tiếng hát ân tình thuỷ chung”.

Ở đây không có tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó thiết tha mặn nồng. Vâng! Bức tranh mùa thu Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu quê hương đất nước.

Với những nét chấm phá đơn sơ giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người cán bộ về xuôi. Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận xét: Những câu thơ Tố Hữu viết về thiên nhiên trong Việt Bắc có thể so sánh với bất kì đoạn thơ miêu tả thiên nhiên nào trong thơ cổ điển.

Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu. Câu chuyện chính trị, chuyện chia tay lịch sử giữa nhân dân và cách mạng đã được lãng mạn hóa thành giống như cuộc chia tay của “ta” và “mình”, của anh-em, đôi lứa…Việt Bắc là bài thơ có tính dân tộc đậm đà, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Bài thơ viết bằng thể thơ lục bát, giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, dễ ngâm, dễ hát, thấm đượm ở đề tài, nội dung, hình thức nghệ thuật, đặc biệt là tình cảm của nhân vật trữ tình ở chiều sâu tư tưởng, cảm xúc.

“Việt Bắc” là khúc ân tình chung của những người cách mạng, của cả dân tộc qua tiếng lòng của tác giả. Cái chung hòa trong cái riêng, cái riêng tiêu biểu cho cái chung. Tình cảm, kỉ niệm đã thành ân tình, tình nghĩa với đất nước, với nhân dân và cách mạng. Thông qua nỗi nhớ về chiến khu Việt Bắc, tác giả khẳng định lòng biết ơn, lòng thủy chung sắc son của người cán bộ kháng chiến đối với nghĩa tình sâu nặng của quê hương và con người Việt Bắc.

Nhắc đến Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà nặng nghĩa nặng tình-nơi đã in sâu bao kỉ niệm của một thời kì cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi. Đúng như lời thơ Chế Lan Viên từng viết “Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Vâng! Việt Bắc đã hóa tâm hồn dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ Tố Hữu với những lời thơ như tiếng nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp những kỉ niệm ân tình có bao giờ quên được.

Dù dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi, bao đời người dâu bể, bao thế kỷ thăng trầm, âm thầm cái công việc của nó là phủi bụi, xoá bỏ tất cả nhưng những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật sẽ còn sống mãi trong đó có những vần thơ của Tố Hữu mãi mãi trường tồn.

Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 15

Nhắc đến những nhà văn, nhà thơ cách mạng trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, ta không thể không nhắc đến Tố Hữu với một giọng thơ đầy tính chiến đấu, đầy lý tưởng, một phong cách thơ trữ tình chính trị. Tuy nhiên, trong những bài thơ ấy vẫn chất chứa những hình ảnh đậm chất trữ tình, giàu chất thơ, mượt mà và tươi sáng. Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc chính là minh chứng tiêu biểu:

Đoạn thơ là một bức tranh Việt Bắc qua bốn mùa và hàm chứa trong đó một nỗi nhớ nhung da diết cùng tấm lòng thủy chung của tác giả nói riêng và người cán bộ nói chung dành cho Việt Bắc:

Hai câu thơ là lời hỏi và kể của người ra đi, muốn biết lòng người ở lại thế nào và tự bộc lộ tấm lòng của mình. Điệp ngữ “ta về” mở đầu cho hai câu thơ như đặt ra những nỗi niềm của người từ giã. Cái đẹp của câu thơ là hình ảnh “hoa cùng người”, phải chăng con người cũng là một bông hoa trong vườn hoa Việt Bắc. Hình ảnh tạo nên nét hài hòa giữa thiên nhiên và con người, hoa và người khi hòa vào nhau, khi tách biệt để tôn lên vẻ đẹp của nhau. Tiếp sau hình ảnh hoa và người là bức tranh bốn mùa Việt Bắc được vẽ ra hết sức chân thật cùng những màu sắc tươi tắn và âm thanh rộn ràng:

Mùa đông với màu xanh tha thiết, ngút ngàn của núi rừng trùng điệp hiện ra đầu tiên. Tác giả khắc họa mùa đông trước có lẽ bởi vì khi người cách mạng đến đây cũng vào mùa đông của đất nước và cũng chính thời điểm ấy sau mười lăm năm, người cách mạng cũng từ biệt Việt Bắc – cái nôi cách mạng Việt Nam.

Giữa cái nền xanh tươi của rừng thẳm nổi bật hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi, làm cho núi rừng không lạnh lẽo hoang vu mà trở nên ấm áp lạ thường. Những bông hoa chuối ẩn trong sương như những ngọn đuốc hồng soi sáng chặng đường mà ta từng bắt gặp trong bài thơ Tây Tiến: “Mường lát hoa về trong đêm hơi”. Cái “đỏ tươi” của hoa chuối như xóa nhòa đi sự lạnh lẽo cô độc của mùa đông lạnh lẽo của núi rừng, như chất chứa, tiềm ẩn sức sống của đất trời. Sự đối lập trong màu sắc nhưng lại hài hòa trong cách diễn đạt khiến mùa đông nơi đây mang hơi hướng của mùa hè ấm áp trong thơ Nguyễn Trãi:

Giữa thiên nhiên ấy, nét đẹp của con người Tây Bắc hiện lên với một nét độc đáo rất riêng:

“Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Người Việt Bắc đi rừng bao giờ cũng gài một con dao ở thắt lưng để phát quang những chướng ngại và đề phòng thú dữ. Ở đây tác giả không miêu tả gương mặt hay thần thái mà miêu tả ánh sáng phản chiếu nơi lưỡi dao gài ở thắt lưng. Ánh nắng mặt trời chiếu xuống làm cho con dao lấy lánh ánh sáng tạo nên hình ảnh con người thật đẹp không thể nào quên, tưởng chừng con người chính là nơi hội tụ của ánh sáng, vừa lung linh vừa rực rỡ. Con người được đặt giữa “đèo cao, nắng ánh”, ở vị trí trung tâm giữa núi rừng Tây Bắc, vượt lên cả không gian với hình ảnh lớn lao, làm chủ thiên nhiên, làm chủ đất nước với hình ảnh kỳ vĩ, lớn lao.

Đông qua rồi xuân. Mùa xuân Việt Bắc hiện lên với sắc trắng của hoa mơ làm bừng sáng cả khu rừng:

Nhắc đến mùa xuân, người ta lại nhắc đến thời điểm khí hậu mát mẻ, cỏ cây hoa lá vì thế tràn đầy sức sống, đâm chồi, nảy lộc xanh non. Ngày xuân của Việt Bắc được Tổ Hữu nhìn với cái nhìn rất độc đáo: “mơ nở trắng rừng”. Nghệ thuật đảo ngữ “trắng rừng” sử dụng từ “trắng” với vai trò động từ chứ không còn là tính từ chỉ màu sắc. Thêm vào đó, động từ “nở” như sự lan tỏa của sắc trắng, lấn át mọi sắc xanh của lá rừng, tạo nên một không gian trong lành, dịu mát của hoa mơ, khiến bức tranh trở nên thanh khiết hơn, trữ tình hơn.

Giữa cái nền trắng của hoa mơ ấy, nổi bật lên hình ảnh con người lao động cần mẫn, dịu dàng: “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp một cách tự nhiên trong công việc hàng ngày. Động từ “chuốt” kết hợp với trợ từ “từng” đã thể hiện bàn tay khéo léo, tỉ mĩ, và tài hoa của người lao động. Đó cũng chính là những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Bắc hào hùng nhưng cũng rất hào hoa.

Mùa hè đến, tiếng ve rộn rã vang lên khắp núi rừng:

Âm vang của tiếng ve làm lá phách đổ vàng. Tưởng chừng chỉ cần tiếng ve ngân lên đã làm tiết trời đột ngột chuyển từ xuân sang hè. Câu thơ có nét tương đồng với ý thơ “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng” của Khương Hữu Dụng. Chỉ với một câu thơ mà gợi lên cả sự vận động của thời gian, của cuộc sống. Và trên cái nền vàng của rừng phách ấy, hiện lên hình ảnh thật đáng yêu làm cho bức tranh thêm nên thơ, trữ tình. Đó là hình ảnh: “cô em gái hái măng một mình”, hái măng một mình nhưng không hề cô đơn mà lại toát lên vẻ đẹp của người phụ nữ chịu thương chịu khó. Câu thơ mang nỗi niềm cảm thông và cảm kích người Việt Bắc, mà người đi không bao giờ quên được những tình cảm chân thành ấy.

Rồi mùa thu Việt Bắc hiện lên với ánh trăng thu vời vợi làm cảnh núi rừng Việt Bắc trở nên mơ màng, êm ả đầy không khí thanh bình. Từ giữa đêm trăng thu huyền ảo ấy, những tiếng hát ân tình thủy chung của con người Việt Bắc lại được cất lên làm nồng ấm cả lòng người:

Ở đây không có tin thắng trận, nhưng lại có tiếng hát nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc, là tiếng hát của núi rừng Tây Bắc gắn bó mười lăm năm ròng rã. Tiếng hát “ân tình” khép lại bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người, gợi cho người đi, kẻ ở và cả những độc giả hiện tại có những rung động sâu xa về tình yêu Tổ quốc.

Nếu câu lục nói về cảnh thì câu bát lại nói về người. Cái đẹp của bài thơ là sự hòa quyện giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc. Phong cảnh Việt Bắc đẹp, nên thơ, trữ tình giàu sức sống như cái nền để làm nổi bật hình ảnh những con người Việt Bắc thật đáng yêu, cần cù, giàu tình nghĩa, thủy chung, son sắt.

Với những nét phác họa đơn sơ, bình dị, bức tranh tứ bình Việt Bắc được vẽ ra với sự hòa quyện giữa cổ điện và hiện đại, giữa con người và thiên nhiên, tất cả tạo nên một bức tranh tổng hòa về thiên nhiên và cuộc sống. Đoạn thơ chính là một nét độc đáo trong phong cách trữ tình chính trị của Tố Hữu mà khi nhắc đến Việt Bắc, người ta lại nhớ ngay đến những tâm hồn hồn hậu, giàu nghĩa tình, thủy chung.

Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 16

Tố Hữu là người đại diện xuất sắc của thơ ca cách mạng Việt Nam và cũng là nhà thơ có phong cách riêng trong sáng tác. Tô Hữu có giọng thơ trữ tình đằm thắm, các sáng tác của ông luôn gắn liền với các chặng đường quan trọng của lịch sử dân tộc.

“Việt Bắc” là đỉnh cao của thơ Tố Hữu, được sáng tác sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng . Những cơ quan Chính phủ rời Việt Bắc về thủ đô Hà nội. Tố Hữu đã viết bài thơ để ôn lại một thời kì kháng chiến gian khổ và hào hùng, thể hiện nghĩa tình sâu nặng của những con người kháng chiến đối với nhân dân Việt Bắc, đối với quê hương cách mạng. Đoạn trích trong SGK Ngữ Văn lớp 12 nằm ở phần I của bài thơ Việt Bắc. Trong bề bộn của những kí ức và hoài niệm, bức tranh sáng, đẹp về Việt Bắc hiện ra trong nỗi nhớ của người về xuôi như một dấu son tươi nguyên của kỉ niệm:

Câu đầu đoạn thơ như là lời ướm hỏi đầy lưu luyến của người ra đi đối với người ở lại. “Ta về mình có nhớ ta”. Câu trên là câu hỏi không cần câu trả lời, nó được nêu ra như một cái cớ cho sự giãi bày tâm tình ở câu dưới : “Ta về ta nhớ những hoa cùng người”. Nhớ hoa là nhớ tới cái đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, mà cái đẹp của Việt Bắc lại không thể tách rời cái đẹp của con người Việt Bắc. Vì vậy, như một cặp song hành đối xứng, hễ nhớ đến người thì hiện bóng hoa, hễ nhớ về hoa thì hiện lên dáng người.

Tám câu thơ tiếp theo vẽ ra bức tranh tứ bình về bốn mùa ở Việt Bắc. Trong nền thơ ca và văn học Việt Nam, bức tranh tứ bình xuất hiện không ít , như khung cảnh ”trông bốn bề” trong “Chinh phụ ngâm” ( Đoàn Thị Điểm ) , đoạn ”buồn trông” trong “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” ( Nguyễn Du ) , hay ở dòng hồi tưởng về quá khứ huy hoàng của con hổ trong “Nhớ rừng” ( Thế Lữ ). Thế nhưng, trong Việt Bắc, bức tranh bốn mùa hiện lên với vẻ đẹp và sắc thái thiên nhiên rất riêng theo trình tự : Đông – Xuân – Hạ – Thu.

Bước vào khung cảnh mùa đông Việt Bắc, đôi mắt ta như bị choáng ngợp bởi sắc xanh bạt ngàn của núi rừng. Đâu đó hình ảnh hoa chuối bập bùng như những bó đuốc làm cho không gian trở nên ấm áp, xua tan đi vẻ lạnh lẽo, hoang vu vốn có của mùa đông. Trong ánh nắng dàn trải khắp không gian, ta thấy ánh lên tia sáng từ chiếc dao gài thắt lưng của một người lao động. Người đứng trên đỉnh đèo cao, nắng từ trên cao chói xuống dao ở thắt lưng, lóe sáng, nó tạo ra một dáng vẻ vững chãi và khí thế của người làm chủ núi rừng.

Chuyển sang mùa xuân, màu xanh của cỏ cây nhường chỗ cho màu trắng tinh khiết , mơ mộng của hoa mơ. Hình ảnh mơ nở trắng xóa cả một rừng làm ta liên tưởng tới cảnh đẹp thiên nhiên khi Bác về nước:

(-Theo chân Bác- Tố Hữu)

Trên nền không gian trong sáng, tinh khôi đó, hình ảnh người đan nón cần mẫn, cẩn trọng chuốt từng sợi giang tạo cho ta cảm giác thật ấm áp và bình dị.

Mùa xuân đi qua, mùa hạ đến. Nhắm mắt và lắng tai nghe, ta sẽ cảm nhận được “nhạc ve”. Tác giả muốn nói đến tiếng ve kêu râm ran trong rừng phách vàng hay muốn nói chính tiếng ve kêu kéo màu vàng bao trùm lên rừng hoa phách ? Đây có thể nói là câu thơ tả cảnh thiên nhiên hay nhất của Tố Hữu. Đọc câu thơ lên ta có thế cảm nhận được sự chuyển đổi từ thính giác sang thị giác trước khung cảnh thiên nhiên. Đặc biệt từ “đổ” gợi cho ta sự chuyển màu mau lẹ từ sắc trắng sang vàng , bừng sáng cả núi rừng Việt Bắc. Ta chợt nhớ Khương Hữu Dụng cũng có một câu thơ có cấu trúc tương tự : “Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”. Nếu Khương Hữu Dụng nhờ vào tiếng chim để khám phá ra vẻ đẹp thiên nhiên buổi bình minh thì Tố Hữu dựa vào tiếng ve đã kéo cả một mùa hè ra khỏi lớp vỏ cũ kĩ.

Hè đến, hình ảnh con người cũng xuất hiện với dáng vẻ hoàn toàn khác. Nếu như hai mùa trước, bóng dáng con người chỉ xuất hiện một cách gián tiếp và thấp thoáng thì lần này, con người Việt Bắc hiện ra rõ nét và sinh động hơn rất nhiều, dưới hình ảnh một người thiếu nữ đang chăm chỉ hái măng một mình.

Từ ” cô em gái” mà tác giả sử dụng cất lên như lời gọi tình tứ, thân quen, thể hiện tình cảm chân thành , tha thiết.

Ta chợt nhận ra dù bất cứ mùa nào, con người Việt Bắc cũng hiện lên trong dáng vẻ lao động cần mẫn. Như vậy, trong đôi mắt tác giả, vẻ đẹp của con người chân chính gắn liền với vẻ đẹp lao động, chuyên cần.

Tạm biệt mùa hè với những gam màu rực rỡ, mùa thu đến mang một cảm giác nhẹ nhàng, bình yên. Mùa thu với ánh trăng huyền ảo, trải dài khắp núi rừng làm ta liên tưởng đến câu thơ:

(-Cảnh khuya- Hồ Chí Minh)

Trong thơ của Bác của Bác có tiếng hát của thiên nhiên thì trong thơ của Tố Hữu cũng có tiếng hát: tiếng hát của con người, tiếng hát giữa người ở và người đi. Có thể nói đây là bản hòa âm của hai tâm hồn đồng điệu. Tiếng hát ân tình ấy vượt qua trập trùng núi rừng, băng qua mênh mông biển cả của thời gian mà vương vít bước chân người đi, nó vấn vương trong lòng người đi kẻ ở, vấn vương trong cả tâm hồn người đọc. Đặc biệt điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần khiến cả đoạn thơ bao trùm một tình cảm nhớ thương da diết.

Bức tranh có buổi trưa đầy ánh nắng, có bầu trời đêm mát dịu ánh trăng. Mùa nào cũng có nét đẹp, nét đáng yêu và mỗi mùa là một bức tranh thơ mộng. Nhờ đó mà bức tranh theo kiểu bộ tứ bình của nghệ thuật truyền thống Đông phương đã đạt đến độ hài hòa, cân xứng theo hai mảng xa và gần : mảng xà là thiên nhiên, mảng gần là con người, thiên nhiên và con người quấn quýt nhau. Thiên nhiên làm nền cho con người, con người thổi hồn mình vào cảnh thiên nhiên khiến thiên nhiên trở nên sống động và đẹp hơn. Tất cả hòa quyện vào nhau trong nỗi nhớ về Việt Bắc của người ra đi. Cùng với giọng điệu tâm tình ngọt ngào, ngôn ngữ trữ tình, chính trị đã tạo nên sức hấp dẫn riêng của bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng. Qua đó ta thấy được tình cảm sâu sắc, tha thiết của Tố Hữu dành cho thiên nhiên và con người nơi Việt Bắc, quê hương cách mạng.

Phân tích bức tranh tứ bình – Mẫu 17

“Ôi! Nỗi nhớ, có bao giờ thế!”. Nỗi nhớ đi qua thời gian, vượt qua không gian. Nỗi nhớ thấm sâu lòng người. Và nỗi nhớ ấy cứ ray rứt, da diết trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng miền xuôi khi xa rồi Việt Bắc thân yêu-nơi đã từng nuôi nấng mình trong những ngày kháng chiến gian lao.

Trong cùng một đoạn thơ ngắn nhưng từ ” nhớ” đã được lặp lại năm lần. Nỗi nhớ xuyên suốt từ câu đầu đến câu cuối đoạn. Hai dòng đầu là lời khơi gợi, “nhắc khéo”:mình có nhớ ta không?Riêng ta, ta vẫn nhớ!Cách xưng hô gợi vẻ thân mật, tình cảm đậm đà tha thiết. Ta với mình tuy hai mà một, tuy một mà hai. Người ra đi nhớ những gì?Việt Bắc có gì để mà nhớ, để mà thương?Câu thơ đã trình bày rất rõ?

“Ta về, ta nhớ những hoa cùng người’

Núi rừng, phong cảnh Việt Bắc được ví như ” hoa”. Nó tươi thắm, rực rỡ và “thơm mát”. Trong bức tranh thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên, giản dị, chân chất, mộc mạc mà cao đẹp vô cùng!Con người và thiên nhiên lồng vào nhau, gắn kết với nhau tạo nên cái phong thái riêng của Việt Bắc.

Bốn mùa đất nước đi qua trong những câu thơ ngắn gọn bằng các hình ảnh, chi tiết chắt lọc, đặc trưng. Mỗi mùa mang một hương vị độc đáo riêng.

Mùa đông, rừng biếc xanh, điểm lên những bông hoa chuối “đỏ tươi” và ánh nắng vàng rực rỡ. Xuân đến, cả khu rừng bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ. Hè sang, có ve kêu và có ” rừng phách đổ vàng”. Và khi thu về, thiên nhiên được thắp sáng bởi màu vàng dìu dìu của ánh trăng. Đoạn thơ tràn ngập những màu sắc chói lọi, rực rỡ: xanh, đỏ, vàng, trắng. Những màu sắc ấy đập mạnh vào giác quan của người đọc. Tiếp xúc với những câu thơ của Tố Hữu, ta như được chiêm ngưỡng một bức tranh sinh động. Trong đó, những gam màu được sử dụng một cách hài hoà tự nhiên càng tô thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc.

Thời gian vận hành nhịp nhàng trong những dòng thơ. Nó bước những bước rắn rỏi, vững chắc khiến ta chẳng thể thấy phút giao mùa. Thiên nhiên Việt Bắc còn được mô tả theo chiều dọc thời gian. Buổi sáng hoa “mơ nở trắng rừng”, trưa nắng vàng rực rỡ và khi đêm về, trăng rọi bàng bạc khắp nơi. Núi rừng Việt Bắc như một sinh thể đang biến đổi trong từng khoảnh khắc.

Và cái phong cảnh tuyệt vời, đáng yêu ấy càng trở nên hài hoà, nắng ấm, sinh động hẳn lên khi xuất hiện hình ảnh của con người. con người đang lồng vào thiên nhiên, như một đoá hoa đẹp nhất, có hương thơm ngào ngạt nhất. Mỗi câu thơ tả cảnh đi cặp với một câu thơ tả người. Cảnh và người đan xen vào nhau một cách hài hoà. Đây là những con người lao động, gắn bó, hăng say với công việc. Kẻ “dao gài thắt lưng”, người ” đan nón”, “cô em gái hái măng một mình” và tiếng hát ân tình của ai đó vang lên giữa đêm rừng núi xôn xao. Hình ảnh con người là nét đẹp của thiên nhiên thêm rực rỡ. Chính họ đã thắp sáng thiên nhiên, làm cho thiên nhiên thêm rực rỡ. Chính họ đã gợi nên nỗi nhớ da diết cho người ra đi. Đọc đoạn thơ, ta có cảm nhận những vẻ đẹp bình dị mà trong sáng của tâm hồn người Việt Bắc. ở đó họ đối xử với nhau bằng tình nghĩa mặn mà, chân thật, bằng sự thuỷ chung “trước sau như một”. Họ đã nuôi chiến sĩ, nuôi cách mạng, nuôi cuộc kháng chiến của dân tộc. Những con người Việt Bắc tuy bình dị nhưng thật anh hùng.

Khơi gợi hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây, Tố Hữu đã thể hiện một tình cảm tha thiết, ân tình sâu nặng và nỗi nhớ thương sâu sắc. Ta với mình, mình với ta đã từng:

Đã từng san sẻ những ngọt bùi, gian nan vất vả như thế!Ta, mình làm sao có thể quên nhau được. Tình cảm mến thương ấy đã ăn sâu vào tâm hồn kẻ ở, người đi. Vì thế, khi ra đi, nhớ là nỗi niềm khắc đậm sâu trong tâm khảm, tình cảm của tác giả.

Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng. Cả khổ thơ ôm chứa niềm lạc quan, vui sống và

tin tưởng vào cuộc sống. Nó mang âm điệu trữ tình, thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết và tấm lòng yêu nước thiết tha của Tố Hữu. Cuối đoạn thơ vang lên tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm. Kỉ niệm ấy theo mãi dấu chân người đi và quấn quýt bên lòng kẻ ở lại.

Những câu thơ của Tố Hữu có tính khái quát cao so với toàn bài. Lời thơ giản dị mà trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc. Nỗi nhớ trong thơ của Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người đọc, như khúc dân ca ngọt ngào để lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng, dịu dàng.

……………….

Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Bài Thơ Sóng Của Xuân Quỳnh (Sơ Đồ Tư Duy) Dàn Ý &Amp; 22 Bài Phân Tích Sóng

TOP 22 bài Phân tích Sóng hay, dễ hiểu nhất

Sơ đồ tư duy bài Sóng 

Sơ đồ tư duy bài Sóng 

Phân tích Sóng học sinh giỏi

Phân tích Sóng hay nhất

Phân tích bài Sóng 

Phân tích Sóng Xuân Quỳnh

Phân tích bài thơ Sóng 

Phân tích bài Sóng của Xuân Quỳnh

Sóng phân tích

Phân tích bài thơ Sóng lớp 12

Sơ đồ tư duy bài Sóng

Dàn ý phân tích bài thơ Sóng

I. Mở bài

– Giới thiệu tác giả: Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ cứu nước. Chị là thi sĩ của tình thương, lòng trắc ẩn và hồn thơ nữ tính.

– Giới thiệu bài thơ Sóng: Bài thơ được sáng tác năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, là bài thơ viết về tình yêu tiêu biểu cho hồn thơ giàu chất nữ tính của Xuân Quỳnh.

II. Thân bài

1. Nhận thức về tình yêu qua hình tượng sóng

a. Khổ 1:

– Sử dụng nghệ thuật tương phản: “dữ dội – dịu êm”, “ồn ào – lặng lẽ”, từ đó khái quát trạng thái đối lập của sóng, gợi liên tưởng đến tâm lý của người phụ nữ khi yêu (khi mãnh liệt khi lại dịu dàng).

– Nghệ thuật nhân hóa: “sông không hiểu” được mình, nên “sóng” muốn tìm đến không gian rộng lớn, hành trình của sóng là hành trình khám phá chính bản thân mình, khát khao vươn tới giá trị tuyệt đích trong tình yêu của người phụ nữ.

b. Khổ 2:

– “Ôi con sóng… và ngày sau vẫn thế”: Dù trong quá khứ hay hiện tại sóng luôn dạt dào, sôi nổi, luôn khát vọng. Đó cũng là khát vọng và bản tính của người phụ nữ muôn đời.

– “Nỗi khát vọng tình yêu… ngực trẻ”: Liên hệ tình yêu của tuổi trẻ với con sóng của đại dương, khát vọng tình yêu là khát vọng đặc trưng muôn đời của tuổi trẻ.

2. Suy nghĩ nguồn gốc của tình yêu

a. Khổ 3: Điệp ngữ “em nghĩ về” và câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên” nhấn mạnh niềm khát khao nhận thức bản thân, người mình yêu và nhận thức về tình yêu muôn đời.

b. Khổ 4: Xuân Quỳnh dựa vào quy luật tự nhiên để tìm khởi nguồn của sóng, của tình yêu, gợi lên sự trăn trở trước bí ẩn của tình yêu, thời điểm bắt đầu tình tình yêu.

3. Nỗi nhớ, lòng thủy chung của người con gái trong tình yêu

a. Khổ 5:

– Nghệ thuật tương phản để gợi ra những phạm vi không gian khác nhau “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, phạm vi thời gian khác nhau: “ngày” – “đêm”, nghệ thuật nhân hóa: “ngày đêm không ngủ được”, diễn tả nỗi nhớ dạt dào, triền miên của sóng với bờ cũng là nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu.

– Người phụ nữ bày tỏ nỗi nhớ một cách trực tiếp, mạnh dạn, chân thành “Lòng em nhớ đến anh”, cách nói thậm xưng “Cả trong mơ còn thức” thể hiện nỗi nhớ ăn sâu vào tiềm thức, thường trực trong suy nghĩ.

b. Khổ 6:

– Nghệ thuật tương phản “xuôi – ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.

– Lời thề thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về người mình yêu bằng cả trái tim.

4. Khát vọng tình yêu vĩnh cửu

a. Khổ 7: Khẳng định quy luật vĩnh cửu của thiên nhiên “Con nào chẳng tới bờ/Dù muôn vời cách trở”, cũng giống như “em”, dù khó khăn, thử thách vẫn luôn hướng đến “anh”.

b. Khổ 8:

– “Cuộc đời tuy dài thế/Năm tháng vẫn đi qua”: Cảm giác cô đơn nhỏ bé trước cuộc đời, nỗi lo âu về sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô tận.

– “Như biển kia dẫu rộng/Mây vẫn bay về xa”: Cảm giác bất an trước cái dễ đổi thay của lòng người giữa “muôn vời cách trở”. Nhưng đây còn là vượt lên sự lo âu phấp phỏng đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng.

c. Khổ 9:

– “Làm sao” gọi sự băn khoăn, khắc khoải, ước ao được hóa thành “trăm con sóng nhỏ” để muôn đời vỗ mãi vào bờ.

– Đó là khát khao của người phụ nữ được sống trong “biển lớn tình yêu” bằng tình yêu và cùng tình yêu, khát khao hòa nhập tình yêu riêng tư trong tình yêu chung rộng lớn.

III. Kết bài

– Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

– Cảm nhận chung về bài thơ Sóng.

………………

Phân tích Sóng học sinh giỏi

Ta từng biết đến những vần thơ yêu đương vội vàng, hối hả của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu:

Nhưng cũng không thể không nhắc đến một Xuân Quỳnh với tình yêu dịu dàng, nhưng đậm sâu, khắc khoải, điển tình của người con gái. Tình yêu ấy đã được thể hiện đầy đủ và trọn vẹn nhất trong bài: “ Sóng ”.

Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, viết khi bà đứng trước biển Diêm Điền. Lúc này Xuân Quỳnh đang ở độ tuổi 25, vừa trải qua những đổ vỡ trong tình yêu. Người phụ nữ ở độ tuổi này có suy nghĩ rất chín về tình yêu; mặt khác cũng thấy được ý thức của cái “tôi” bên cạnh cái ta chung. Tác giả cũng không đặt tình yêu trong quan hệ cảm tính một chiều mà thể hiện khát vọng tình yêu như một nhu cầu tự nhận thức, khám phá.

Mở đầu bài thơ với hai câu thơ cùng cấu trúc tạo nên những làn sóng vừa nhẹ nhàng vừa mạnh mẽ: “Dữ dội và dịu êm/ Ồn ào và lặng lẽ”. Câu thơ tạo thành hai cặp đối lập: “dữ dội / ồn ào” và “dịu êm / lặng lẽ”, chỉ với bốn tính từ nhưng Xuân Quỳnh đã diễn tả đầy đủ những cung bậc khác nhau của sóng. Đây đồng thời cũng chính là cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu. Xuân Quỳnh ngắt nhịp 2/3 cho câu thơ, đồng thời với sự luân phiên nhịp nhàng bằng trắc đã có thấy sự đối nghịch trong những trạng thái của sóng, cũng là trạng thái của em, với liên từ “và” đã khẳng định dù chúng là những xúc cảm đối nghịch nhưng luôn song song tồn tại với nhau, không mâu thuẫn mà đan xen, vận động và có sự chuyển hóa. Đây chính là những cung bậc cảm xúc phức tạp trong tâm hồn người con gái đang yêu.

Chuyện tình yêu mấy ai có thể hiểu sâu sắc và tường tận, nhưng người con gái ở đây không chịu những yếu tố mập mờ như thế, cô quyết tâm từ bỏ không gian nhỏ hẹp, đến với không gian rộng lớn:

Đây quả thực là một quyết định hết sức táo bạo, quyết liệt của người con gái. Nó khác hẳn người con gái trong xã hội cũ luôn bẽn lẽn, thẹn thùng, không dám quyết định cuộc đời mình. Còn người con gái chủ động tìm kiếm câu trả lời, tìm kiếm hạnh phúc.

Khát khao được yêu thương là nỗi khát khao muôn đời, đặc biệt là tuổi trẻ. Xuân Diệu đã từng viết rằng: “Làm sống được mà không yêu/ Không nhớ không thương một người nào”. Yêu đương như một lẽ tất yếu của con người, và người con gái trong bài thơ cũng vậy, nỗi khát khao tình yêu bồi hồi trong lồng ngực trẻ, luôn thổn thức, rực cháy. Các từ “ngày xưa”, “ngày sau” khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của sóng cũng như sự trường tồn vĩnh cửu, bất diệt của tình yêu:

Trong bất cứ vấn đề nào của cuộc sống, con người luôn có nhu cầu giải mã, lí giải chúng và trong tình yêu của không phải là một ngoại lệ: “Trước muôn trùng sóng bể /…/ Khi nào ta yêu nhau”. Hình tượng sóng được Xuân Quỳnh sử dụng để diễn tả bản chất của tình yêu đó là sự bí ẩn không thể lí giải được. Giữa em và muôn trùng sóng bể có sự đối lập rất rõ nét, em nhỏ bé, mong manh, hữu hạn trước cái vô biên, rộng lớn của vũ trụ, chính điều đó đã làm thức dậy những suy tư, trăn trở trong lòng cô gái đang yêu. Từ “em nghĩ” được lặp lại hai lần, nhấn mạnh vào nhu cầu khám phá, cắt nghĩa. Em nghĩa về biển lớn “Từ nơi nào sóng lên?” và câu trả lời là “Sóng bắt đầu từ gió”; em nghĩ về anh và em, là câu hỏi muôn đời: “Khi nào ta yêu nhau?”, và câu trả lời thật chính xác: “Em cũng không biết nữa”. Quả đúng tình yêu chẳng thể đong đếm, cân đo chính xác từng giây phút, từng thời điểm, tình yêu như một cơn mưa rào, bất chợt đến khiến ta ngỡ ngàng, hạnh phúc. Hai câu hỏi của nhân vật trữ tình đan cài, hòa quyện vào nhau, chúng dường như nhập vào làm một. Nếu như nguồn gốc của sống, ta có thể cắt nghĩa được, thì nguồn cội của tình yêu ta lại không thể cắt nghĩa nổi. Đó là một điều lạ lùng, bí ẩn, đây cũng chính là yếu tố tạo nên sự hấp dẫn cho tình yêu.

Những nhịp sóng khi êm đềm, khi dâng lên cuộn trào cũng như chính cung bậc cảm xúc trong tình yêu: Con sóng dưới lòng sâu/ …/ Dù muôn vời cách trở. Nỗi nhớ là cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ này, nỗi nhớ ấy gắn với không gian “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, với “bờ”; nó bao trùm cả thời gian “ngày đêm không ngủ được”, và xâm chiếm tâm hồn con người, ngay cả trong vô thức “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Một tiếng “nhớ” thôi mà đã diễn tả đầy đủ được tình yêu em dành cho anh. Đồng thời đây là khổ duy nhất trong bài có đến 6 câu thơ, sự phá cách ấy đã góp phần diễn tả trào dâng mãnh liệt của nỗi nhớ trong tình yêu.

Nỗi nhớ da diết, khắc khoải đi cùng với sự thủy chung, son sắt trong tình yêu của nhân vật trữ tình: “Dẫu xuôi về phương Bắc/…/ Hướng về anh – một phương”. Phương Bắc và phương Nam là hai địa danh cách xa nhau hàng ngàn cây số, sử dụng hai danh từ này nói lên sự xa xôi, cách trở. Đặc biệt trong cách dùng từ xuôi về Bắc, ngược về Nam dường như đã hàm chứa sự cách trở, éo le, những biến động trong cuộc đời. Nhưng đối lập với cái thường biến ấy là sự bất biến “Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh – một phương”. Đó là biểu hiện của tấm lòng thủy chung, son sắt.

Trong khổ thơ, Xuân Quỳnh sử dụng rất sáng tạo cặp hình ảnh ẩn dụ “sóng – bờ” ở đây được sử dụng rất mới mẻ dù đã được nói đến nhiều trong ca dao, thơ cũ. Nếu trong ca dao, sóng/ thuyền/ đò là ẩn dụ cho người con trai, bờ/ bến ẩn dụ cho người con gái; thì ở đây “sóng” lại là hình ảnh của người con gái, “bờ” là niềm hạnh phúc sum vầy. Như vậy, trong khổ thơ, ta không chỉ thấy vẻ đẹp của một tình yêu mãnh liệt, thủy chung mà còn thấy được sự chủ động đầy mạnh mẽ của người con gái khi yêu.

Từ bỏ cái chật chội, bé nhỏ Xuân Quỳnh hướng đến cái lớn lao hơn, đẹp đẽ hơn đó là khát vọng dâng hiến và bất tử hóa tình yêu: Cuộc đời tuy dài thế/…/ Để ngàn năm còn vỗ. Khổ thơ thứ tám vừa là suy tư về không gian, thời gian nhưng đồng thời cũng thể hiện những nhận thức trong tình yêu và đi đến ước nguyện được tan ra, được dâng hiến trọn vẹn trong tình yêu. Nhà thơ khao khát tình yêu của mình hòa trong tình yêu của mọi người. “Tan ra” không phải mất đi mà hoà giữa cái chung và cái riêng. Tình yêu như thế không bao giờ cô đơn.

Bài thơ sáng tạo hình tượng sóng đặc sắc, giàu ý nghĩa biểu tượng. Kết hợp với kết cấu song hành giữa “sóng” và “em” khi đang cài, hòa quyện làm một khi tách rời, độc lập để nhìn ngắm, nhận thức và soi chiếu nhau. Thể thơ ngũ ngôn, giàu nhịp điệu, ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc đã góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm.

Với hình tượng “sóng” giàu sức biểu cảm và trên cơ sở khám phá sự tương đồng “sóng” và “em”, Xuân Quỳnh đã diễn tả một cách chân thực và đầy đủ nhất tình yêu của một người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách, bão giông của cuộc đời và sự hữu hạn của đời người để sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu ấy vừa mang vẻ đẹp truyền thống vừa có những nét hiện đại.

Phân tích Sóng hay nhất Phân tích Sóng – Mẫu 1

Viết về đề tài tình yêu nếu như nền thi ca Nga thế kỷ XIX có Puskin với Tôi yêu em bất hủ, thì Việt Nam ta cũng có Xuân Diệu và Xuân Quỳnh hai nhà thơ tài năng với những bài thơ tình xuất sắc. Có lẽ bởi tên của cả hai đều mang một chữ “Xuân” nên họ đều có những cảm xúc đặc biệt với mùa xuân của cuộc đời, với mùa xuân tình yêu. Thế nhưng khác với hồn thơ cháy bỏng, nồng nàn và vội vã của Xuân Diệu, thì dáng thơ của Xuân Quỳnh lại nền nã, tế nhị, không có cái phần ngông cuồng, mãnh liệt như ông hoàng thơ tình. Xuân Quỳnh viết về nhiều đề tài, bà viết về tình yêu quê hương đất nước, viết về cách mạng, viết về cuộc đời. Nhưng chỉ khi viết về tình yêu đôi lứa thì ngòi bút của bà mới rực sáng hơn cả trong những tác phẩm với câu từ đơn giản, nhưng chứa đựng những quan điểm mới mẻ và vẻ đẹp trong sáng của tình yêu trong tâm hồn con người đặc biệt là ở người phụ nữ. Tiêu biểu nhất cho những sáng tác về tình yêu ấy của bà phải kể đến bài thơ Sóng.

Sóng được viết vào năm 1967, trong một chuyến công tác của Xuân Quỳnh tại biển Diêm Điền, Thái Bình, khi ấy Xuân Quỳnh mới chỉ vừa 25 tuổi đời, là lứa tuổi mặn mà và tươi đẹp nhất của người phụ nữ. Thế nhưng bà cũng đã phải nếm trải sự đổ vỡ trong tình yêu, Xuân Quỳnh cũng từng có một gia đình hạnh phúc, một người chồng thương yêu chiều chuộng hết lòng, nhưng có lẽ sự xa cách về tâm hồn, và sự chăm chút quá tỉ mỉ của người đàn ông ấy khiến bà cảm thấy ngột ngạt và chán nản. Hôn nhân đổ vỡ, Xuân Quỳnh không cảm thấy thất bại hay buồn rầu mà lại càng thấm thía và khao khát có được một tình yêu đích thực, sự thấu hiểu giữa những con người cùng chí hướng. Khi đứng trước biển Diêm Điền, với những cơn sóng dạt dào, bà nghĩ về bóng hình người đàn ông trong định mệnh, để viết ra những vần thơ về tình yêu thật sâu sắc và chân thành.

Trong Sóng người ta thấy quan điểm về tình yêu của Xuân Quỳnh rất hay và rất độc đáo vừa mang tính chất truyền thống đằm thắm, thủy chung, lại cũng mang vẻ hiện đại đầy khao khát và tự do.

Xuân Quỳnh lấy hình tượng sóng làm hóa thân cho tình yêu và cũng là nhân vật trữ tình “em” trong tác phẩm, đó là một phép ẩn dụ rất tinh tế thể hiện được những nét cá tính của người phụ nữ trong tình yêu. Đứng trước tình yêu, nhân vật trữ tình thể hiện được bản năng cùng cá tính mạnh mẽ, chủ động và sự tự tin, để hòa mình vào với tình yêu bằng những cảm xúc thực tế “dữ dội”, “ồn ào” và sôi nổi vô cùng. Từ đó ta nhận ra cái tôi cá nhân mạnh mẽ, luôn cố gắng kiếm tìm hạnh phúc đích thực trong tình yêu một cách tích cực, chứ không bị động chờ đợi cái gọi là “duyên phận”. Nếu một dòng sông nhỏ nhoi chẳng thể cho ta một tình yêu ta cần, thì còn ngại ngần chi mà không sông pha biển lớn, tắm trong hàng ngàn cơn sóng tình yêu mạnh mẽ và đầy hy vọng? Tuy nhiên bên cạnh vẻ hiện đại, thì hình tượng sóng cũng gợi ra những vẻ đẹp rất truyền thống của người phụ nữ Việt Nam trong việc bộc lộ tình cảm ấy là sự “dịu êm” và “lặng lẽ”. Họ dùng chính sự dịu dàng, chính cái yên lặng ngại ngùng khi đứng trước tình nhân để bộc lộ thứ tình cảm nồng nàn, e ấp trong lòng bấy lâu. Khiến đối phương càng nhìn lại càng thấy lòng thêm xao xuyến, yêu thương cái vẻ đẹp đáng quý ấy ở người phụ nữ Á đông. Bên cạnh đó hình tượng “sóng” còn mang đến cho chúng ta những liên tưởng về những cung bậc cảm xúc trong tình yêu, đôi khi là sự nồng nhiệt, cháy bỏng, là sự rung động mạnh mẽ, nhưng tình yêu không phải là xúc nhất thời mà nó còn cần thêm sự lắng đọng, thấu hiểu giữa hai tâm hồn đồng điệu. Dẫu không nói thành lời, nhưng chỉ vài nét mặt, một nụ cười họ cũng biết được đối phương cần gì, và trở thành bến đỗ “dịu êm”, “lặng lẽ” trong cuộc đời của nhau.

Ở những vần thơ tiếp người ta lại thấy một vẻ đẹp khác trong tình yêu của người phụ nữ mà muôn đời nay vẫn được ca ngợi ấy là đức tính thủy chung, son sắt trong tình yêu. Ngày xưa em dành trọn cho người thứ tình yêu vụng dại, thì khi ngày sau đến, thứ tình yêu ấy cũng lớn khôn, lại càng thêm tha thiết, chân thành, đằm thắm chứ chẳng một lần nhạt phai. Xuân Quỳnh đã đặt vào câu thơ hai dấu mốc thời gian, “ngày xưa” và “ngày sau”, tức là quá khứ và tương lai, vậy thì ở hiện tại dĩ nhiên cũng chẳng thoát khỏi sự chân thành, nhiệt huyết cùng với “Nỗi khát vọng tình yêu/vẫn bồi hồi trong ngực trẻ”. Dù là khi còn xuân sắc, trẻ dại, hay khi đã đứng tuổi, trung niên trải qua bao đắng cay trong cuộc đời, thì em muôn đời vẫn thế vẫn khao khát tình yêu, thứ bao đời khiến con người ta say mê níu giữ, thứ khiến cho trái tim “bồi hồi trong ngực trẻ”. Thứ khiến cho con người cảm thấy cuộc đời càng có thêm ý nghĩa, càng thêm yêu đời và muốn phấn đấu vì tương lai, muốn kiếm tìm cho mình một niềm hạnh phúc tốt đẹp.

Có lẽ rằng khi yêu, ai cũng đều muốn lý giải rằng, tình yêu đôi ta bắt đầu từ đâu, từ khi nào, tại sao ta yêu nhau. Thế nhưng nếu tình yêu dễ lý giải như thế thì có lẽ nền thơ ca về đề tài này đã sớm lụi tàn ý tưởng, bởi lẽ chưa một ai có thể định nghĩa về tình yêu một cách toàn vẹn và chính xác. Nó là tổng hòa của nhiều cung bậc cảm xúc, là món quà kì diệu mà tạo hóa đã ban tặng cho con người, là thứ tình cảm với muôn vàn cung bậc cảm xúc khiến người ta bước vào thiên đường, nhưng cũng có khi giày vò khiến tâm can ta đau nhói. Xuân Quỳnh nghĩ về mình và người ấy, nghĩ về nguồn gốc của tình yêu đôi lứa, nghĩ về biển và bà chợt nhận ra rằng định nghĩa tình yêu bằng lý trí là một việc làm vô nghĩa. Thay vì mãi quẩn quanh trong câu hỏi “Khi nào ta yêu nhau”, tại sao con người lại không dành phần tâm sức ấy để cống hiến cho tình yêu của mình thêm nồng nàn sâu sắc, lắng nghe từng nhịp đập của đôi tim để cảm nhận thật rõ niềm hạnh phúc quý giá lúc còn có thể.

Sau những băn khoăn những trăn trở về tình yêu, thì Xuân Quỳnh bắt đầu bước vào những nỗi nhớ, vốn là cảm xúc kinh điển trong thứ tình cảm vốn nhiều rối ren phức tạp này. Dẫu là “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”, dẫu có là nơi nào đi chăng nữa thì tình yêu vẫn luôn đong đầy và toàn vẹn với những nỗi nhớ tha thiết xuyên không gian và thời gian. Nhớ đến độ “ngày đêm không ngủ được”, nhớ đến độ cả khi đã bước vào giấc ngủ êm đềm, mà hình bóng của tình nhân vẫn còn in đậm trong những giấc mơ triền miên không dứt. Nỗi nhớ ấy lại càng làm nổi bật đức tính thủy chung, son sắt của người phụ nữ trong tình yêu, khi mà đi khắp phương trời, hình bóng của người thương vẫn không khi nào rời khỏi tâm trí, tấm lòng yêu, trái tim yêu vẫn chỉ nhắc nhở về một thân ảnh duy nhất. Mà đối với nữ sĩ ấy là người đàn ông nơi Hà Nội thân yêu!

Sau những nỗi nhớ tha thiết, chân thành Xuân Quỳnh đã bộc lộ thêm những quan điểm khác trong tình yêu. Mà ở đây hình tượng sóng là đại diện cho con người trong công cuộc tìm kiếm tình yêu, nhưng có phải lúc nào người ta cũng thuận buồm xuôi gió, mà vẫn gặp phải nhiều trở ngại khó khăn để tìm được hạnh phúc đích thực cho riêng mình. Ví như Xuân Quỳnh chính là cuộc hôn nhân đầu thất bại, nhưng chỉ cần người ta có hy vọng, không mất niềm tin vào tình yêu và cuộc đời, sẵn sàng vượt qua mọi chông gai thách thức thì tin rằng sóng nào cũng tới bờ, người có tình ắt hẳn sẽ về với nhau. Và rồi Xuân Quỳnh cũng nhận thức được năm tháng đang dần trôi đi mà bản thân vẫn còn chơi vơi trên bước đường hạnh phúc, dù bà năm đó mới chỉ 25 tuổi xuân. Điều này đã thôi thúc trong tâm hồn nữ sĩ những khao khát mạnh mẽ về một tình yêu đích thực, khao khát được hòa tan vào biển lớn tình yêu vĩnh cửu, được sống hết mình một lần vì tình yêu cho khỏi uổng phí đời người.

Sóng là một bài thơ có cấu tứ đơn giản, câu từ mộc mạc nhưng đã bộc lộ được hết những tâm trạng của con người khi yêu, đặc biệt ấy là tâm trạng của người phụ nữ. Cho chúng ta thấy những quan điểm rất tiến bộ của Xuân Quỳnh trong tình yêu, khuyến khích người phụ nữ làm chủ cuộc đời mình, tự tin tìm kiếm hạnh phúc. Đồng thời cũng luôn tôn trọng và giữ gìn những phẩm chất truyền thống tốt đẹp, ấy là tấm lòng thủy chung, son sắt, sự dịu dàng, thấu hiểu trong tình yêu lứa đôi muôn đời.

Phân tích Sóng – Mẫu 2

Xuân Quỳnh là nữ thi sĩ tài hoa của nền văn học Việt Nam, với tư duy mới mẻ, phóng khoáng của mình, bà đã thổi 1 luồng gió mới vào kho tàng thơ văn. Nổi bật trong những sáng tác của của bà là bài thơ Sóng).

Tính từ trái nghĩa “dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ” thể hiện những thái cực đối lập của con sóng. Đó cũng là những tâm trạng khác nhau của người con gái trong tình yêu.

Mượn hình ảnh dòng sông không hiểu chính mình nên tìm ra biển khơi rộng lớn tìm câu trả lời để bóng gió nói về tâm tư của người con gái trong tình yêu luôn trăn trở nhiều điều và có ước muốn lớn lao là khám phá được những băn khoăn đó.

Con sóng: ngàn năm vẫn thế, vẫn tính chất, đặc điểm ấy không bao giờ thay đổi.

Người con gái: khát vọng tình yêu luôn thường trực, rạo rực; bao nhiêu năm vẫn hướng về tình yêu, về người yêu.

Trước biển lớn, người con gái suy tư về tình yêu của mình. Câu hỏi tu từ: “Từ nơi nào sóng lên?” là suy nghĩ của cô gái về cội nguồn của tình yêu.

Tự vấn về nguồn gốc của con sóng: sóng bắt đầu từ gió còn gió bắt đầu từ đâu thì không lí giải được. Sự lí giải, cắt nghĩa về cội nguồn của sóng dẫn đến cắt nghĩa cội nguồn của tình yêu. Tình yêu đầy bí ẩn không thể giải thích được cội nguồn của nó, thời điểm mà nó bắt đầu.

Tâm trạng nhớ nhung da diết, khắc khoải của con sóng, dù con sóng ở bất cứ nơi nào vẫn chỉ nhớ về bờ, hướng về ngày ngày đêm đêm cho đến khi vào được đến bờ.

Người con gái luôn một lòng một dạ hướng về người mình yêu thương, nhấn mạnh nỗi nhớ triền miên luôn thường trực. Nỗi nhớ ấy theo họ cả vào trong mộng, sống trong giấc mơ của họ. Đó không chỉ là tấm lòng thủy chung sâu sắc của người con gái mà còn là khao khát tình yêu, được thể hiện yêu thương với người yêu của mình.

“Dẫu…” lặp cấu trúc khẳng định dứt khoát nỗi nhớ và niềm tin tuyệt đối vào tình yêu. Dù cho đi đến bất cứ nơi nào thì trong lòng người con gái ấy cũng luôn hướng về người yêu vì trong tim cô người yêu là phương hướng duy nhất dẫn lối cho cô vượt qua mọi khoảng cách, mọi khó khăn.

Con sóng dù ở ngoài khơi xa thế nào, dù khó khăn thế nào cũng vẫn tìm được đến bến bờ. Người con gái dù đa sầu đa cảm, suy tư trăn trở thế nào cuối cùng rồi cũng sẽ được hạnh phúc.

Người con gái ấy còn nhiều lo lắng, trăn trở: năm tháng còn rất dài, biển kia bao la đến đâu nhưng liệu có đủ sức để giữ những đám mây ở lại bên mình mãi mãi?

Người con gái dù có yêu nhiều đến đâu, có khao khát nhiều đến đâu nhưng liệu có giữ được người yêu, được tình yêu này ở lại cùng mình và vẫn vẹn nguyên như lúc đầu?

Khi con sóng tan ra thành những bọt nước nhỏ sẽ được ở lại với biển khơi mãi mãi, sẽ không còn những đau khổ, những lo lắng. Đó cũng là ước muốn của người con gái, khao khát được sống với tình yêu, với người mình yêu thương trọn đời trọn kiếp. Mượn nét tương đồng của con sóng để diễn tả nội tâm của người con gái trong tình yêu giúp bạn đọc dễ hình dung ra và có những liên tưởng thú vị.

Sóng là bài thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh và của thơ ca Việt Nam hiện đại viết về đề tài tình yêu. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị ban đầu và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.

Phân tích Sóng – Mẫu 3

Tình yêu lứa đôi, tình cảm vợ chồng… đó là đề tài vô tận được các thi sỹ, nhạc sỹ, nhà văn khai thác, thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau. Các nhà văn, nhà thơ thường thông qua những hiện tượng, qui luật tự nhiên trong cuộc sống hay những vật gần gũi, thân quen để ví von, ẩn dụ khi nói về tình yêu. Như nhà thơ Nguyễn Trung Kiên dùng hình tượng “Đôi dép” để triết lý sâu sắc về sự gắn bó, thủy chung, son sắt trong tình yêu. Nhà thơ Vũ Cao thì ví tình yêu đôi lứa như “Núi đôi” không thể chia lìa “núi chồng, núi vợ đứng song đôi”; nhà thơ Trần Hòa Bình vô tình nhìn thấy một chiếc lá rụng giữa mùa thu cũng có bài thơ hay “Thêm một” để chiêm nghiệm về cuộc đời, về tình yêu…

Còn với Xuân Quỳnh, nữ thi sỹ với nhiều bài thơ tình nổi tiếng như “Thuyền và biển” thì con sóng trong thơ của chị vừa “Dữ dội’ lại vừa “dịu êm” vừa “Ồn ào” lại vừa “lặng lẽ“ như chính tính cách của người phụ nữ vậy. Bên ngoài có khi họ thật lặng lẽ, đằm thắm, dịu dàng nhưng bên trong lại ẩn chứa một tâm hồn khao khát yêu thương, với tình yêu mãnh liệt, dữ dội biết bao. Xuân Quỳnh đã rất tài tình khi đưa cặp đôi phạm trù nội dung có tính đối nghịch đi liền nhau nhằm tạo ra sự so sánh giữa cái mạnh mẽ, ồn ào và cái dịu êm, lặng lẽ qua đó nhằm diễn tả tính cách đan xen, đa chiều của người phụ nữ, nhất là khi họ đang yêu.Dữ dội và dịu êm

Chúng ta còn cảm nhận, đằng sau ý nghĩa ấy là thể hiện của sự giằng xé về tâm trạng của người phụ nữ, vì khi yêu phụ nữ thường phải hy sinh, chịu đựng nhiều hơn. Mà tình yêu thường cũng gặp nhiều trắc trở, không bao giờ bình yên, phẳng lặng, đôi lúc còn ẩn chứa nhiều giông bão.

Tình yêu đối với Xuân Quỳnh vượt qua cả khuôn khổ của thời gian và không gian, điều đó nói lên rằng, nếu đích thực là tình yêu chân chính thì nó luôn vĩnh cữu, sống mãi với thời gian, khắc sâu vào tâm khảm, trí nhớ của con tim cho dù đó là quá khứ, hiện tại hay tương lai. Và tuy có nhiều cung bậc tình cảm khác nhau nhưng tình yêu thì muôn đời vẫn thế!

Đứng trước biển cả bao la, hùng vĩ nhà thơ thấy mình thật nhỏ bé và muốn được chiêm nghiệm lại cuộc sống, chiêm nghiệm về tình yêu. Từ những quy luật, hiện tượng tự nhiên của biển cả, nhà thơ đặt câu hỏi “Từ nơi nào sóng lên”, “gió bắt đầu từ đâu?” và lại liên tưởng “Em cũng không biết nữa, khi nào ta yêu nhau”. Như nhà thơ Xuân Diệu cũng đã nói: “Nào ai định nghĩa được tình yêu”, Xuân Quỳnh cũng không thể cắt nghĩa nổi tình yêu. Chỉ biết rằng, tình yêu đến như một lẽ tự nhiên, thường tình. Đó là cơ duyên, là sự giao hoà, cộng hưởng về rung động cùng nhịp đập của hai con tim, mà không ai có thể sắp đặt hoặc cưỡng lại được.

Có lẽ đây là khổ thơ mà tôi tâm đắc nhất trong cả bài thơ, tình yêu của người phụ nữ tuy mãnh liệt, mạnh mẽ là thế nhưng cũng rất e ấp, sâu kín, có khi được che giấu, ẩn chứa bên trong, như những con sóng ngầm dưới lòng đại dương, mà đã là sóng ngầm thì rất dữ dội, có thể gây nên giông bão!

Sức mạnh tình yêu đã vượt lên cả quy luật tự nhiên của con người, thường khi ngủ là lúc mà người ta quên đi tất cả. Nhưng, với Xuân Quỳnh vì nỗi nhớ người yêu quá lớn, quá mạnh mẽ, luôn thường trực trong lòng, nên ngay cả trong giấc ngủ, giấc mơ nhưng vẫn thức để nhớ về Anh! Cái hay, cái tài tình là ở chỗ đó. Nếu như Xuân Quỳnh nói trong giấc mơ Em gặp Anh thì đó lại là chuyện thường tình, vì bất cứ ai cũng có thể làm được điều đó. Bởi lẽ, khi trong lòng người ta nghĩ nhiều đến một ai đó, nghĩ nhiều về một điều gì đó thì lúc ngủ người ta thường mơ thấy nó. Nhưng có lẽ , “trong mơ” mà “còn thức” vì quá nhớ Anh thì chỉ có mỗi Xuân Quỳnh!

Đất có bốn mùa: Xuân – Hạ – Thu – Đông; trời có bốn hướng: Bắc – Nam – Đông – Tây. Nhưng với người phụ nữ khi yêu thì chỉ có một hướng duy nhất, đó là: Anh! Dù làm gì, ở đâu, ở chân trời góc bể nào họ cũng luôn hướng về người mình yêu, sống tốt, sống đẹp cho nhau. Tình yêu của người phụ nữ thật cao thượng và bao dung, đó còn là sự hy sinh, thủy chung son sắt, đợi chờ khi xa người yêu.

Tình yêu dù mãnh liệt, dữ dội đến mấy cũng không thể vượt qua quy luật khắc nghiệt của cuộc đời, cũng có lúc gặp phải trắc trở, chia ly, đó là lẽ tất nhiên. Nhưng không vì thế mà tình yêu mất đi vẻ đẹp vĩnh hằng, hay sớm bị lãng quên; mà qua năm tháng, càng nhiều thử thách tình yêu ấy càng lớn lên, thắm thiết, sâu sắc hơn. Dù có thể, tình yêu ấy, như những con sóng ngoài khơi xa không thể đến được bến bờ của hôn nhân, hạnh phúc nhưng đó cũng sẽ là một ký ức, kỷ niệm đẹp trong đời của mỗi con người, nếu chúng ta biết nâng niu, trân trọng, gìn giữ, như một món quà quý giá mà cuộc sống đã ban tặng cho ta!

Phân tích bài Sóng

(Bài thơ tuổi nhỏ, Xuân Diệu)

Đó cũng là lý do tình yêu được đưa rất nhiều vào trong thơ ca và nghệ thuật, trở thành nguồn cảm hứng bất tận với nhiều thi nhân. Có rất nhiều những nhà thơ, nhà văn từng viết về tình yêu trong đó không thể không kể đến cây bút thơ tình xuất sắc của nền văn học Việt Nam – Xuân Quỳnh – nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ đã thể hiện tình cảm người con gái qua bài thơ “Sóng”.

Khi nhắc đến tên tuổi của Xuân Quỳnh, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương đều biết tiếng thơ bà là tiếng nói nhân hậu, thủy chung, giàu trực cảm, tha thiết khát vọng hạnh phúc đời thường và Sóng là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương đặc trưng đó. Năm 1967, nhân một một chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền (Thái Bình), khi đứng trước biển khơi rộng lớn, những tâm tư tình cảm của bà được bộc bạch qua những vần thơ và đó là cơ sở để Sóng ra đời. Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ là sự đan xen giữa hình ảnh Sóng và hình ảnh “em” – người con gái trong tình yêu. Mở đầu bài thơ tác giả mang đến cho bạn đọc những trạng thái khác nhau của con sóng:

“Dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ” là những tính từ trái nghĩa thể hiện những thái cực đối lập của con sóng: có lúc hiền lành dịu dàng nhưng cũng có lúc vô cùng dữ dội. Đó cũng là những tâm trạng khác nhau của người con gái trong tình yêu, họ luôn dịu dàng, nhỏ nhẹ với tình yêu, với người yêu của mình nhưng cũng có lúc họ trở nên mạnh mẽ, cương trực trước tình yêu ấy. Hình ảnh dòng sông không hiểu chính mình nên tìm ra biển khơi rộng lớn tìm câu trả lời cũng chính là tâm tư của người con gái luôn trăn trở, suy tư nhiều điều và có ước muốn là khám phá được những điều lớn lao hơn trong tình yêu.

Bốn câu thơ tiếp theo nỗi khát vọng của người con gái:

Con sóng từ ngàn năm vẫn thế, vẫn tính chất, đặc điểm ấy không bao giờ thay đổi. Và người con gái cũng vậy khát vọng tình yêu luôn thường trực, rạo rực trong trái tim, bao nhiêu năm vẫn hướng về tình yêu, về người yêu.

Khi đứng trước biển lớn, người con gái mang những suy tư về tình yêu của mình. Câu hỏi tu từ: “Từ nơi nào sóng lên?” không chỉ là thắc mắc về cội nguồn của con sóng, về nơi con sóng bắt đầu mà đó còn là thắc mắc về cội nguồn của tình yêu, về nơi tình yêu bắt đầu.

Sau những thắc mắc đó là lời lí giải của tác giả:

Lý giải được ngọn nguồn của sóng thì dễ bởi “Sóng bắt đầu từ gió”nhưng để hiểu “Gió bắt đầu từ đâu” thì thi sĩ lại ấp úng “Em cũng không biết nữa”. Cũng như tình yêu của anh và em nó đến rất bất ngờ và tự nhiên bởi “Tình yêu đến trong đời không báo động”. Câu thơ “Em cũng không biết nữa” như một cái lắc đầu nhè nhẹ, bâng khuâng và phân vân. Em và anh yêu nhau bao giờ? Câu hỏi này muôn đời không ai lý giải nổi nhất là những bạn trẻ đang yêu và đắm say trong men tình ái. Tình yêu là vậy, khó lý giải, khó định nghĩa.

Con sóng dù ở bất cứ nơi nào, dù ở ngoài khơi xa hay ở trên mặt nước thì vẫn luôn mang tâm trạng nhớ nhung da diết, khắc khoải bến bờ của nó, hướng về bờ ngày ngày đêm đêm cho đến khi gặp được bến bờ. Người con gái cũng vậy, họ luôn một lòng một dạ hướng về người mình yêu thương dù ở bất cứ nơi nào, bất kể ngày hay đêm. Nỗi nhớ ấy theo họ cả vào trong mộng, sống trong giấc mơ của họ. Đó không chỉ là tấm lòng thủy chung sâu sắc của người con gái mà còn là khao khát tình yêu, được thể hiện yêu thương với người yêu của mình.

Khổ thơ tiếp theo như một lời khẳng định chắc nịch về tấm lòng của người con gái:

Thế giới của Anh và Em không giới hạn chiều dài Bắc – Nam, không khoanh vùng địa bàn mà nơi nào cũng có nỗi nhớ thường trực của tình yêu vĩnh viễn. Dù cho đi đến bất cứ đâu thì trong lòng người con gái ấy cũng luôn hướng về người yêu vì trong tim cô người yêu là phương hướng duy nhất dẫn lối cho cô vượt qua mọi khoảng cách, mọi khó khăn.

Tiếp theo lời khẳng định là nguyên lí chắc nịch của con sóng:

Ở ngoài khơi xa nơi trăm ngàn con sóng ngày đêm không biết mỏi đang vượt qua giới hạn không gian thăm thẳm muôn vời cách trở để hướng vào bờ ôm ấp nỗi yêu thương. Cũng như em muốn được gần bên anh, được hòa nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ như tìm về nguồn cội yêu thương, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi.

Những từ “tuy dài thế – vẫn đi qua – dẫu rộng” như chứa đựng ở trong nó ít nhiều nỗi âu lo: Biển kia bao la đến đâu nhưng liệu có đủ sức để giữ những đám mây ở lại bên mình mãi mãi? Người con gái dù có yêu nhiều đến đâu, có khao khát nhiều đến đâu nhưng liệu có giữ được người yêu, được tình yêu này ở lại cùng mình và vẫn vẹn nguyên như lúc đầu? Tuy thế nhà thơ vẫn tin tưởng ở tấm lòng nhân hậu và tình yêu chân thành của mình sẽ vượt qua tất cả như áng mây kia như năm tháng kia. Có thể nói Xuân Quỳnh yêu thương tha thiết, mãnh liệt nhưng cũng tỉnh táo nhận thức dự cảm những trắc trở, thử thách trong tình yêu; đồng thời cũng tin tưởng vào sức mạnh tình yêu sẽ giúp người phụ nữ vượt qua thử thách đến với bến bờ hạnh phúc.

Cuối cùng là ước muốn được sống trọn với tình yêu của người con gái:

Khi con sóng tan ra thành những bọt nước nhỏ sẽ được ở lại với biển khơi mãi mãi, sẽ không còn những đau khổ, những lo lắng. Đó cũng là ước muốn của người con gái, khao khát được sống với tình yêu, với người mình yêu thương trọn đời trọn kiếp.

Xuân Quỳnh đã tìm được một cách nói riêng để bộc lộ tình yêu, những dung động của lòng mình với một giọng thơ kể lể, tâm tình vừa êm ái, nhẹ nhàng vừa thiết tha. Âm hưởng, nhịp điệu bài thơ ngân nga do sự phối âm, phối vần tài tình như những con sóng cứ nối nhau không dứt. Bài thơ vì thế có cả âm vang của sóng, gió thiên nhiên và sóng của tâm hồn.

Sóng là bài thơ tiêu biểu của Xuân Quỳnh và của thơ ca Việt Nam hiện đại viết về đề tài tình yêu. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị ban đầu và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.

Phân tích Sóng Xuân Quỳnh

Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước. Thơ của nữ sĩ dễ đi vào lòng người với vẻ đẹp giản dị mà đằm thắm. Trong đó, “Sóng” là thi phẩm nổi bật của đời thơ Xuân Quỳnh.

Trong bài thơ có hai hình tượng trung tâm đó là hình tượng sóng và em. Sóng trước hết là một sự vật thiên nhiên, nhưng hình ảnh này không chỉ mang nghĩa thực mà còn mang ý nghĩa biểu tượng. Đó không chỉ là sóng biển mà còn là sóng tình yêu trong biển khơi tâm hồn người phụ nữ. Tác giả mượn sóng để nói lên những cung bậc cảm xúc trong lòng người con gái đang yêu. Hình tượng “em” là sự hóa thân của cái tôi Xuân Quỳnh. Nữ sĩ đã trải lòng mình trên những trang thơ, giãi bày những cảm xúc, suy tư trong tình yêu.Sóng và em vừa song song tồn tại vừa soi chiếu lẫn nhau và có lúc lại hòa nhập vào làm một.

Đoạn thơ “Dữ dội và dịu êm….Khi nào ta yêu nhau”. Đây là những câu thơ đầu trong bài thơ “Sóng” mà thi sĩ đã khắc họa hình tượng sóng và hình tượng em để nói lên những tiếng lòng của nhà thơ. Hai câu thơ đầu tác giả nêu lên những trạng thái cảm xúc đối lập của sóng: lúc thì dữ dội, mạnh mẽ xô bờ khi thì chảy trôi lững lờ, dịu êm. Đó cũng là những cảm xúc của người con gái khi yêu. Trong tình yêu, lúc thì người con gái cuồng nhiệt, đắm say nhưng cũng có khi e ấp, dè dặt. Những trạng thái đó mâu thuẫn nhưng lại thống nhất với nhau. Hai câu thơ trên được tổ chức theo phép đối tạo nên một cấu trúc cân xứng, hài hòa, làm nổi bật các thuộc tính đa dạng mà nhát quán của sóng.tác giả đặt những tính từ “dịu êm”, “lặng lẽ” ở cuối câu thơ vì đây là con sóng nữ tính.

Phép nhân hóa đã thổi hồn vào sóng để biến nó trở thành một con người. Sóng không chấp nhận giới hạn chật chội, khi không được sóng hiểu, khi không tìm thấy được sự đồng điệu, nó tìm ra đại dương mênh mông. Trong tình yêu, người phụ nữ cũng không chấp nhận những gì tầm thường, chật hẹp mà thường hướng tới những điều cao cả, lớn lao, thường muốn vươn đến những khát vọng vô bờ.

Trong đoạn thơ tiếp theo,tác giả thông qua quy luật của sóng để nói về quy luật của tình yêu. “Ôi con sóng ngày xưa…Bồi hồi trong ngực trẻ”. Con sóng đã vỗ bờ từ ngàn xưa cho đến bây giờ và mãi mãi về sau này. Đó là quy luật bất biến của tự nhiên. Tình yêu cũng vậy, trước đây, hiện nay và mãi mãi về sau nó vẫn khơi lên những khát khao bồi hồi, rạo rực. Chừng nào còn con người trên cõi thế gian thì chừng ấy tình yêu còn tồn tại như món quà kì diệu mà thượng đế ban tặng cho nhân loại.

Nhân vật trữ tình đứng trước biển khơi với những nghĩ suy sâu lắng:

Người con gái đang nghĩ về bản thân mình, nghĩ về người thương và cũng suy tư về sóng biển. Nhân vật trữ tình đang ở trong niềm khao khát lí giải nguồn gốc của sóng cũng như nguồn gốc của tình yêu.

“Em” đã không phải truy tìm được căn nguyên của sóng cũng như nguồn gốc của tình yêu. Tình yêu diệu kì, bí ẩn như thế giới tự nhiên. Nó là những rung động của con tim có những khi lí trí không thể can thiệp và cũng chẳng giải thích được. Tình yêu vốn luôn là một câu hỏi, một ẩn số khó tìm thấy đáp án rõ ràng. Tác giả cũng phải thốt lên thổ lộ rằng” em cũng không biết nữa.Khi nào ta yêu nhau”. Chính cái không biết ấy lại là một bằng chứng cho tình yêu chân thật, đắm say, không toan tính, người phụ nữ chỉ đi theo sự dẫn dắt của tâm hồn.

Đoạn thơ trên đã khắc họa lại hình tượng sinh động hình tượng sóng và hình tượng em. Qua hình tượng sóng tác giả muốn nói lên quy luật bất diệt tình yêu. Đoạn thơ trên rất thành công với thể thơ 5 chữ. Các câu thơ ngũ ngôn nối tiếp nhau như những con sóng miên man, dạt dào ngoài đại dương.

Phân tích bài thơ Sóng

Mười bảy, cảm nhận được chút man mác và làm du dương tâm hồn, chút bồi hồi xao xuyến và khát vọng về những điều xa xôi dường như vô hình, trái tim trẻ trong ta không thôi đập những nhịp thổn thức vì cảm giác khó hiểu, lúc dâng lên mãnh liệt, lúc lắng xuống dịu dàng nhưng vẫn âm thầm chảy mãi như những con sóng miệt mài đi tìm lí lẽ của trái tim trước biển đời mênh mông. Và khi những lời thơ của Xuân Quỳnh chợt ngân lên bằng tất cả sự tinh tế, nhạy cảm, Sóng làm ta có cảm giác như trong đó là một phần tâm sự tình yêu của chính mình.

Tình yêu là đề tài muôn thuở của thi ca Việt Nam. Đã có nhiều nhà thơ viết về đề tài này với những cảm xúc và phong cách nghệ thuật riêng của mình, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc. Xuân Diệu đã từng làm người đọc nhớ mãi khi đặt tất cả dấu ấn tình yêu mãnh liệt của mình với “Biển”, còn Xuân Quỳnh- một nhà thơ nữ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ đã thể hiện tình yêu của mình qua hình ảnh “Sóng”, một sự tiếp nối và sáng tạo độc đáo trong định nghĩa về tình yêu. Lúc nhịp nhàng trầm lắng, khi sôi nổi ngân nga đầy mãnh liệt, Sóng – dòng chảy xuyên suốt của bài thơ đã thể hiện tình cảm chân thành và sâu sắc của người phụ nữ đang yêu

Mở đầu bài thơ là một trạng thái đặc biệt của trái tim khao khát tình yêu, tìm đến những cảm xúc lạ lẫm và mới mẻ trong tâm hồn:

Trong lòng mỗi người luôn hiện hữu một con sóng tình cảm ngập tràn, nhưng chỉ đến khi nó được dâng lên và lan tỏa ta mới có thể cảm nhận được những thay đổi trong suy nghĩ và nhận thức về tình yêu. Không gấp gáp, vồ vập, Xuân Quỳnh đã thay lời tất cả những trái tim trẻ bộc lộ nỗi lòng mình bằng những trạng thái tình cảm khác nhau thông qua những con sóng. Khi dữ dội mãnh liệt, khi dịu êm trầm lắng, khi ồn ào nhấp nhô, có lúc lại âm thầm lặng lẽ, những tình cảm tưởng chừng như mâu thuẫn, đối lập nhau trong trái tim của người phụ nữ nhưng lại mang theo tất cả những đặc điểm và trạng thái tâm lí đang khao khát tình yêu. Nhiều khi chính bản thân họ không thể định nghĩa và gọi tên cảm xúc của chính mình, muốn tìm đến những định nghĩa riêng, tìm sự đồng điệu, hòa nhập vào bể lớn tình yêu. Chính vì thế từ dòng sông bình lặng nhỏ bé trong tâm hồn, con sóng tình đã đi đến những miền bể xa. Nơi ấy có tình yêu và nỗi khát vọng không khi nào ngừng tắt:

Tình yêu luôn hiện hữu trong cuộc sống của mỗi người, giúp cho tâm hồn thêm nhạy cảm, tinh tế và biết tin vào những điều tốt đẹp. Với Xuân Quỳnh, tình cảm ấy- những con sóng lòng từ ngàn xưa đến nay và đến tận mai sau vẫn không bao giờ ngừng chảy. Quá khứ của ngày xưa, tương lai của ngày sau mãi vẹn nguyên một nỗi khát vọng bồi hồi về tình yêu trong trái tim của người phụ nữ trẻ khao khát xa xôi. Giờ đây, đứng trước bể lớn mênh mông, cảm nhận mình nhỏ bé và lọt thỏm trong cảm giác tình yêu mênh mông, người con gái ấy nghĩ về bản thân mình, về người yêu, về biển lớn và tự hỏi chính bản thân mình: “Từ nơi nào sóng lên?”. Tình cảm ấy xuất phát từ nơi nào, từ chính bên trong mỗi người hay từ cuộc sống muôn màu muôn vẻ bên ngoài? Khi yêu, ai cũng như ai, đều muốn phân tích và định nghĩa từng trạng thái tâm lí, từng biểu hiện cụ thể để đi đến định nghĩa và giải thích về nó. Sáng tạo trong cách thể hiện, trong cách định nghĩa, nhà thơ nữ trẻ đã giải thích những điều khó hiểu ấy bằng những hình ảnh quen thuộc, nhẹ nhàng:

Nỗi nhớ là biểu hiện của tình yêu khi xa cách. Nỗi nhớ ấy được Xuân Quỳnh diễn tả thật mãnh liệt, thường trực cả mọi lúc, khi thức cũng như khi ngủ. Những tình cảm chôn chặt trong lòng, tình cảm tràn ngập trong tim muốn bộc lộ nhưng không thể nói lên thành lời, chỉ biết tìm đến trong nỗi nhớ mãnh liệt, cồn cào và da diết. Như những con sóng cuồn cuộn, triền miên, vô tận, nỗi nhớ ấy đã chảy vào từng nhịp sống, trong cả tiềm thức là những giấc mộng đêm về. Sóng khao khát tới bờ, còn em thì khao khát đến với anh. Tình yêu của người con gái lúc thiết tha, mãnh liệt nhưng vô cùng nữ tính, ý nhị và sâu xa, chân thành.

Trải qua bao trắc trở gian lao, bao biến cố ngược xuôi, khó khăn gian khổ, dù không gian địa lí cách trở, thời gian xa xôi nhưng lòng người con gái vẫn “hướng về anh – một phương”, không bao giờ thay đổi. Điều đó thể hiện được sự chân thành, chung thủy trong tình yêu của người phụ nữ, luôn gửi tình yêu của mình đến một người, chỉ một người thôi nhưng đầy ăm ắp. Những con sóng đại dương dù bão tố vùi dập nhưng vẫn trở về với bờ, hòa nhập vào miền cát ấm nóng. Và ở đây, cô cũng tự dặn lòng mình, hứa với tình yêu của mình sẽ đến với bờ bến hạnh phúc dẫu xa xôi, dù muôn vàn cách trở

Khát vọng mãnh liệt, tình yêu chân thành sâu sắc nhưng trong trái tim trẻ kia vẫn ý thức được rằng đó là thứ mong manh khó giữ, có thể trơn tuột khỏi tay:

(Nói cùng anh)

Trăn trở, băn khoăn liệu tình yêu ấy có vượt qua được bể lớn của cuộc đời, liệu có thoát khỏi quy luật cuộc sống, những đổi thay không ai nói trước được. Cuộc đời dài đấy, năm tháng dẫu đi qua, mây vẫn bay, biển vẫn rộng, sóng vẫn vỗ bờ nhưng rồi tất cả sẽ vào cõi xa xăm vô định. bể lớn cuộc đời, bể lớn tình yêu là vô hạn nhưng cuộc đời con người là hữu hạn, làm sao có thể vượt thoát ra khỏi giới hạn ấy? Xuân Quỳnh đã đặt nỗi trăn trở ấy trải dài theo những con sóng tình cảm lo âu, để rồi nó trở nên thôi thúc, bùng lên thành khát vọng được trở thành những con sóng mãi trường tồn, mãi dâng lên và tìm đến bờ:

Những con sóng dạt dào đã khép lại, nhưng những con sóng tình yêu trong lòng mãi dâng lên và cồn cào, khắc khoải trong biển khơi, trong lòng mỗi chúng ta – những người vừa chớm mười bảy….

Phân tích bài Sóng của Xuân Quỳnh

Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước. Thơ của nữ thi sĩ dễ đi vào lòng người đọc với vẻ đẹp giản dị mà đằm thắm. Đó là những tâm tình, suy tư của người phụ nữ luôn khao khát được yêu thương. Trong đó, “Sóng” là một thi phẩm nổi bật của thơ Xuân Quỳnh. Đặc biệt là những dòng thơ đầu : “Dữ dội và dịu êm…Khi nào ta yêu nhau”.

Xuyên suốt trung tâm của bài thơ là hình tượng sóng và hình tượng em. Sống là một hiện tượng của thiên nhiên. Nhưng ẩn sâu trong đó là sóng tình yêu, sóng lòng trong tâm hồn của người phụ nữ. Hình tượng em là sự hóa thân của nhà thơ Xuân Quỳnh. Nữ sĩ trải lòng mình trên những trang thơ, mượn hình ảnh sóng để nói lên những nỗi lòng.

Trong hai câu thơ trên, tác giả nêu lên những trạng thái đối lập của sóng: lúc thì mạnh mẽ, dữ dội, lúc lại trôi lững lờ. Đó cũng là đặc điểm của tâm trạng người con gái khi yêu. Có lúc cuồng nhiệt, đắm say, có lúc lại dè dặt e ấp. Những trạng thái tuy đối lập nhưng lại thống nhất với nhau. Hai câu thơ đầu được tổ chức theo phép đối, tạo nên cấu trúc hài hòa, cân xứng. Tác giả đặt những tính từ như “dịu êm”, “lặng lẽ” ở dưới mỗi câu thơ cũng cho thấy được sự nữ tính của con sóng.

Phép nhân hóa đã thổi hồn vào sóng để biến nó trở thành một con người. Sóng không chấp nhận giới hạn chật chội, khi không được sóng hiểu, khi không tìm thấy được sự đồng điệu, nó vươn ra tìm đến với đại dương mênh mông. Cũng giống như trong tình yêu, người phụ nữ không chấp nhận những gì tầm thường, chật hẹp mà luôn hướng tới những điều cao cả, lớn lao.

Ở đoạn thơ tiếp theo, tác giả viết:

Con sóng đã vỗ bờ từ ngàn xưa, cho đến bây giờ và mãi mãi sau này. Đó là quy luật bất biến của tự nhiên. Trong tình yêu, cũng có sự tương đồng khi mà tình yêu, nỗi khao khát luôn thường trực trước đây, ngày nay và mãi cả về sau. Chừng nào con người còn tồn tại thì tình yêu cũng như một món quà diệu kì mà thượng đế ban tặng cho nhân loại. Khát vọng tình yêu là khát vọng bất diệt của con người, đặc biệt là những con người trẻ tuổi.

Nhân vật trữ tình đứng trước biển khơi với những suy nghĩ sâu lắng:

Người con gái đang yêu nghĩ về bản thân mình, nghĩ về người thương và cũng suy tư về sóng biển. Nhân vật trữ tình đang ở trong niềm khao khát lí giải nguồn gốc của sóng cũng như nguồn gốc của tình yêu.

Advertisement

“Em” đã không đi truy tìm được căn nguyên của sóng, cũng như tình yêu. Tình yêu diệu kì nhưng cũng thật bí ẩn như thế giới tự nhiên. Nó là những rung động của con tim, có những khi lí trí không thể chiến thắng được con tim mách bảo. Tình yêu vẫn luôn là câu hỏi không khó nhưng cũng chẳng dễ dàng nào có thể lí giải được căn nguyên, cội nguồn. Nhân vật trữ tình cũng phải bộc lộ rằng “em cũng không biết nữa/khi nào ta yêu nhau”. Chính ái không biết đấy của em lại là minh chứng chân thành nhất cho tình yêu sâu đậm, không toan tính. Đó chính là tiếng lòng của người phụ nữ đang yêu.

Có thể thấy rằng, đoạn thơ mở đầu khắc họa được trọn vẹn hình tượng sóng và hình tượng em. Sóng là em và em cũng là sóng. Sóng mang ý nghĩ biểu trưng cho những trạng thái cảm xúc của người phụ nữ đang yêu.

Qua hình tượng sóng để tác giả cũng nói lên quy luật bất diệt của tình yêu. Các câu thơ mặc dù ngắn về số lượng từ nhưng lại có sức cô đọng và giàu giá trị gợi hình gợi tả. Để rồi, người đọc cũng cảm thấy những con sóng đang gối thúc vào lòng mình.

Sóng phân tích

Tình yêu là đề tài muôn thuở của văn học, nghệ thuật; là nguồn cảm hứng bất tận của người nghệ sĩ thiết tha với đời, với người. Có thể nói rằng từ khi có con người thì đã có tình yêu và con người còn tồn tại thì tình yêu còn bất diệt. Lịch sử thơ ca nhân loại từ xưa đến nay đã có biết bao bài thơ tình nổi tiếng khắp Đông, Tây ca ngợi tình yêu của con người và đã từng làm xúc động biết bao trái tim của nhiều thế hệ. Ở Việt Nam chúng ta, những năm tháng chống Mỹ cứu nước, tuy phạm vi thơ ca chủ yếu mở rộng về phía tình cảm lớn như tình yêu Tổ quốc, đất nước, nhân dân, cách mạng nhưng thơ ca vẫn dành một khoảng nhất định cho tình cảm riêng tư. Nhiều bài thơ ca ngợi tình yêu nam nữ ra đời trong thời kỳ này còn mãi làm xúc động trái tin bao thế hệ sau này. “Sóng” của Xuân Quỳnh – một nhà thơ nữ tài hoa – là một bài thơ như thế.

Bài thơ là bản tình ca tuyệt đẹp. Cảm xúc chủ đạo của toàn bài là một nỗi niềm yêu thương tha thiết, là những đợt sóng tình cảm xôn xao, trào dâng mãnh liệt như chính nhan đề của bài thơ. Sóng là một hình tượng ẩn dụ giàu sức gợi tả và biểu cảm. Xuân Quỳnh đã tìm gặp ở hình ảnh Sóng một biểu tượng để diễn đạt những cảm xúc phong phú, đa dạng của tình yêu. Đó là những cảm xúc nhiều cung bậc, nhiều sắc thái vừa đối lập vừa thống nhất, hài hòa:

Tình yêu có những niềm bí ẩn, khó hiểu luôn luôn thúc giục con người khám phá. Vì vậy tình yêu trong Xuân Quỳnh là một niềm khát vọng vươn tới khôn cùng:

Tâm hồn nhà thơ có lúc bâng khuâng, xao xuyến:

Những câu hỏi rất vu vơ đã diễn tả rất chính xác tâm trạng của người đang yêu. Tác giả đã thể hiện rất tài tình, nắm bắt được một trạng thái tâm hồn, chân thực và điển hình cho tâm trạng của những người yêu nhau. Đó là một tâm trạng rất khó diễn đạt: một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến rất nhẹ, rất mơ hồ trong trái tim. “Em cũng không biết nữa. Khi nào ta yêu nhau”. Lời tự bạch chân tình, vừa tự nhiên vừa bất ngờ. Lời thơ chuyển từ ý nói về thiên nhiên (sóng, gió) đến ý thổ lộ tình người khá bất ngờ mà vẫn rất tự nhiên.

Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh gắn liền với nỗi nhớ; niềm thương sâu sắc, cồn cào, mãnh liệt:

Sự tài tình của nhà thơ là đã tìm được một ẩn dụ rất khéo léo, phù hợp với tâm trạng, diễn tả chính xác nỗi nhớ cồn cào da diết. Đó là nỗi nhớ mênh mông trải rộng trong không gian, trải dài theo thời gian. Từ hình ảnh ẩn dụ (sóng), lời thơ chuyển mạch rất tự nhiên để bộc lộ tâm trạng con người:

Thật là một tâm hồn sôi nổi, nồng nàn, một nỗi nhớ da diết, không một phút nào dừng, không một lúc nào nguôi. Khổ thơ với hai câu đứng độc lập trong toàn bài chính là một cách kết cấu đầy dụng ý các tác giả nhằm làm nổi bật tình yêu mãnh liệt của mình. Những cặp từ sóng đôi, tương ứng bên nhau: Sóng-bờ, ngày-đêm, trên-dưới, mơ – ngủ, em – anh, tạo một âm hưởng hài hòa, một nhịp điệu đong đưa như sóng. Nỗi nhớ trở thành một tình cảm thường trực trong tâm hồn nhà thơ.

Chừng như nhà thơ có cảm tưởng không thể nào nói hết tâm tình của mình nên cứ láy đi láy lại điệp khúc: “Dẫu xuôi về… Dẫu ngược về…” như một sự khẳng định, một lời thề chung thủy, ghi lòng tạc dạ.

Tình yêu trong Sóng là một tình yêu mãnh liệt, là động lực thúc đẩy con người đủ sức vươn lên, vượt qua những trắc trở, những gian nguy:

Tình yêu quả là một sức mạnh vô hình dám thách thức với tất cả mọi ngăn cách của cuộc đời, những bất hạnh của số phận. Ý thức được sự hữu hạn của đời người, của tuổi xuân, Xuân Quỳnh khao khát mãnh liệt của một tình yêu vĩnh hằng:

“Làm sao được tan ra”, lời thơ chứa đựng một niềm ao ước cháy bỏng, da diết. Một khát vọng mãnh liệt thốt lên thành lời vừa đằm thắm vừa sôi nổi. Hình ảnh trong thơ đầy sáng tạo. Tình yêu được ví như biển lớn mênh mông. Tâm hồn xao động mãnh liệt thành trăm con sóng cảm xúc vỗ miên man, bất tận.

Những từ “biển lớn”, “ngàn năm” diễn tả những khái niệm không gian, thời gian rộng lớn, vô cùng đã thể hiện khát vọng vừa nồng nàn, thiết tha vừa cao cả, thiết tha. Sự chuyển hóa liên tục giữa hai hình tượng: “Sóng” và “em” làm cho mạch cảm xúc càng thêm trữ tình.

Tình yêu trong Sóng của Xuân Quỳnh khác với tình yêu trong Biển của Xuân Diệu. Xuân Diệu cũng dùng hình tượng sóng làm ẩn dụ để diễn tả tình yêu. Nhưng sóng – tình yêu trong thơ Xuân Diệu quá vồ vập “Đến tan cả đất trời. Anh mới thôi dào dạt”. Hoặc “Cũng có khi ào ạt, Như nghiến nát bờ em”. Ngược lại sống – tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh tuy cũng không kém phần sôi nổi, mãnh liệt nhưng vẫn đằm thắm, nhân hậu.

Xuân Quỳnh đã tìm được một cách nói riêng để bộc lộ tình yêu, những dung động của lòng mình với một giọng thơ kể lể, tâm tình vừa êm ái, nhẹ nhàng vừa thiết tha. Âm hưởng, nhịp điệu bài thơ ngân nga do sự phối âm, phối vần tài tình như những con sóng cứ nối nhau không dứt. Sự hiệp vần – cước vận và yêu vận xen kẽ nhau – tạo ra bài thơ giàu nhạc tình. (vần xen kẽ giữa các câu: lẽ – bể – thế – trẻ…, vần liền nhau: trẻ – bể, phương – dương, bờ – trở). Sự hiệp vần và phối thanh nhịp nhàng, hài hòa này nhằm diễn tả những cơn sóng của thiên nhiên và lòng người cứ trải dài triền miên, vô tận. Bài thơ vì thế có cả âm vang của sóng, gió thiên nhiên và sóng của tâm hồn. Bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh là một bài thơ hay, mãi mãi còn âm vang trong lòng người đọc.

Phân tích bài thơ Sóng lớp 12

Xuân Quỳnh là một nhà thơ nữ nổi tiếng của nền văn học hiện đại nước ta. Tuy bà hưởng thọ không nhiều do tai nạn quá đột ngột nhưng những tác phẩm bà để lại vẫn để lại những tiếng vang lớn, có sức lay động lòng người.

Trong thơ Xuân Quỳnh đề tài tình yêu luôn chiếm đa số. Tình yêu trong thơ của thi sĩ Xuân Quỳnh mang nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, khi thì dịu dàng, e ấp, nhưng có lúc lại vô cùng mãnh liệt, dữ dội. Khi thì thật gần nhưng nhiều lúc cũng thật xa xôi, mang tới cho người đọc nhiều tâm trạng bồi hồi xao xuyến khác nhau.

Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là một bài thơ vô cùng độc đáo thể hiện tâm trạng của một người con gái đang yêu. Những hờn giận vu vơ, tủi hờn, ghen tuông rất phụ nữ, được tác giả Xuân Quỳnh gửi hồn trong thơ khiến khiến người đọc, người nghe thổn thức theo từng câu thơ của bà.

Người con gái khi yêu thường có nhiều tâm trạng cảm xúc khác nhau, lúc nắng, lúc mưa vô cùng thất thường như thời tiết vậy. Có thể đang vui, đang tràn đầy yêu thương, nhưng lúc sau lại sầu muộn, ưu phiền vu vơ như trời đang nắng bỗng nổi cơn mưa bóng mây.

Chính vì sự bất chợt vui, bất chợt buồn đó, cũng giống như những con sóng kia , khi thì “dữ dội” muốn cuốn trôi mọi thứ ra biển cả mênh mông, muốn nhấn chìm tất cả, khi thì “dịu êm” hiền hòa như lòng mẹ, e ấp như những bông hoa chớm nở, những con sóng hiền lành khẽ ru mình theo từng làn gió đùa mơn man.

Với những câu thơ tự nhiên giản dị nhưng nhiều lôi cuốn, sức hút với người đọc bởi nó đánh đúng vào tâm trạng của một người con gái đang yêu, trái tim đang vui buồn theo những cảm xúc của người mình yêu.

Khi yêu con người thường gắn liền với nỗi nhớ nhung, nỗi nhớ trong tình dường như dài hơn, sâu hơn nỗi nhớ thường trực trong lòng người con gái. Tác giả đã vô cùng tinh tế khi sử dụng hình ảnh con sóng giữa đại dương mênh mông, bao la để miêu tả sự nhớ nhung khắc khoải của người con gái khi xa cách người mình yêu.

Tình yêu làm con người có những trạng thái tâm lý bất thường, không thể giải thích, bởi tình yêu là thứ vô hình khó định tính, định vị lý giải. Luôn ẩn chứa những câu hỏi mà không ai có thể giải thích, trả lời cho thật rõ ràng. Trong tình yêu người đang yêu thương hay có tâm trạng bất an, hoài nghi về người mình yêu. Tác giả Xuân Quỳnh cũng cũng thế, tác giả không thể biết tường tận ngọn nguồn của tình yêu, bởi nó không hề tuân thủ theo một quy luật tự nhiên nào cả. Nó phát triển theo bản năng của mỗi con người.

Trong tình yêu nỗi nhớ nhung, sự hoài nghi luôn tồn tại đan xen nhau, càng yêu thì người ta lại càng hoài nghi về mọi việc và có cảm giác sợ mất mát, sợ đánh mất đi người mình yêu. Chính sự lo lắng bất an này làm cho trái tim người đang yêu trở nên loạn nhịp, không tuân theo một quy tắc nào cả, là cho cuộc sống của người đang yêu trở nên khác thường, làm nhiều việc khác người không giống ai.

Tình yêu là điều duy nhất tồn tại trong tâm hồn người con gái đang yêu. Dù người con gái đó có đi đâu, ở đâu trái tim họ vẫn luôn chỉ hướng về người đàn ông mà họ yêu. Nó thể hiện sự mãnh liệt, tha thiết nhưng cũng thể hiện sự thủy chung, giản dị , trong sáng của người con gái dành cho người đàn ông của mình

Dù cuộc sống có nhiều khó khăn, cách trở nhưng Xuân Quỳnh luôn hướng tới tình yêu, khát khao đến bến bờ của tình yêu, muốn được ở bên người mình yêu. Tình yêu của Xuân Quỳnh

Trong cuộc đời dài rộng này, tương lai làm một điều mà con người không thể nào tiên đoán được. Nhưng, tác giả Xuân Quỳnh vẫn luôn có niềm tin vào tình yêu của mình, vào sự lựa chọn con đường mà mình đang đi và sẽ đi.

Hình ảnh con sóng là hình ảnh ẩn dụ vô cùng tinh tế và độc đáo khiến cho người đọc có nhiều liên tưởng chân thực, nhưng rất sâu sắc về người con gái đang yêu nhưng nhớ mong, chờ đợi những hờn ghen, giận dỗi trong lòng người con gái được người đọc cảm nhận và thấu hiểu.

Tác giả Xuân Quỳnh đã thổi và tâm hồn người đọc những cảm xúc thật giản dị, nhưng cũng vô cùng mãnh liệt về tình yêu của mình. Bài thơ “Sóng” đã trở thành một tuyệt phẩm vô cùng hay của tác giả về đề tài tình yêu. Nó trở thành dấu ấn riêng khó phai khi nhớ về thơ của Xuân Quỳnh.

……………………

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Khổ 4 Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu (3 Dàn Ý + 10 Mẫu) Phân Tích Khổ 4 Bài Việt Bắc trên website Bvta.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!